Tọa đàm 'Chiến thắng Tây Nguyên - Mở đầu cho toàn thắng': Vận dụng, phát huy những bài học quý trong tình hình mới
Tọa đàm 'Chiến thắng Tây Nguyên - Mở đầu cho toàn thắng' do Quân đoàn 34 và Báo Quân đội nhân dân phối hợp tổ chức ngày 26-2 nhận được nhiều tham luận sâu sắc. Báo Quân đội nhân dân tiếp tục trích đăng một số tham luận tại tọa đàm nhằm làm rõ thêm những bài học quý trong Chiến dịch Tây Nguyên và sự vận dụng, phát huy những bài học kinh nghiệm đó trong tình hình mới.
Đồng chí HỒ VĂN NIÊN, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai:
Tự hào truyền thống, vững bước phát triển
Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, trong quá trình chuẩn bị, quân và dân Gia Lai đã phối hợp với Mặt trận Tây Nguyên đẩy mạnh khí thế tiến công và nổi dậy, góp phần phân tán, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, tạo điều kiện để Mặt trận Tây Nguyên tổ chức các đòn tiến công chiến lược, tiêu diệt và làm tan rã một tập đoàn phòng ngự lớn, giải phóng địa bàn chiến lược quan trọng. Trong chiến dịch này, quân và dân tỉnh Gia Lai đã phối hợp với lực lượng quân chủ lực, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến thuật nghi binh và đánh tiêu diệt địch trên đường rút chạy, giải phóng hoàn toàn Bắc Tây Nguyên.
Tự hào với những kết quả đạt được, các cấp, các ngành cùng cán bộ và nhân dân trong tỉnh phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang, đồng tâm, nhất trí, đoàn kết một lòng cùng nhau vượt qua mọi khó khăn, thử thách, bằng những hành động thiết thực, góp phần xây dựng quê hương Gia Lai ngày càng giàu đẹp. Trong đó, tập trung phát huy nội lực, tranh thủ tối đa các nguồn ngoại lực; khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế của tỉnh; tích cực thu hút đầu tư, liên kết, hợp tác với các địa phương, các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà. Gắn phát triển kinh tế với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; phát triển kinh tế-xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội và bảo vệ môi trường.
Trong những năm tới, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Gia Lai tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang, đoàn kết, thống nhất, phát huy tiềm năng, lợi thế của tỉnh và huy động tổng hợp các nguồn lực cho đầu tư phát triển, thúc đẩy kinh tế tiếp tục tăng trưởng, góp phần xây dựng Gia Lai phát triển nhanh, xanh, bền vững gắn với củng cố quốc phòng, an ninh vững mạnh, hoàn thành tốt công tác quốc phòng, quân sự địa phương...

Sư đoàn 10 (Quân đoàn 34) diễn tập bắn đạn thật với đề mục “Trung đoàn bộ binh được tăng cường binh khí kỹ thuật tiến công địch đổ bộ đường không”, tháng 10-2024. Ảnh: ANH SƠN
Đồng chí NGÔ THANH DANH, Bí thư Tỉnh ủy Đắk Nông:
Bài học kinh nghiệm về xây dựng khu vực phòng thủ ngày nay
Từ thực tiễn chiến đấu và chiến thắng trong Chiến dịch Tây Nguyên của quân dân ta, trong đó có đóng góp của tỉnh Đắk Nông đã góp phần bổ sung vào kho tàng nghệ thuật chiến tranh nhân dân về vai trò lãnh đạo, chỉ đạo và khả năng giành thắng lợi; về chuẩn bị và xây dựng lực lượng, hợp đồng tác chiến và tinh thần đoàn kết, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh... Đồng thời, để lại những bài học kinh nghiệm cho Đảng bộ, quân dân tỉnh Đắk Nông hiện nay, đó là thường xuyên quán triệt sâu sắc và triển khai nghiêm túc quan điểm, đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nghiêm túc và tiến hành đồng bộ các giải pháp phát triển kinh tế-xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và gắn quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế-xã hội; xây dựng các tiềm lực trong khu vực phòng thủ, chú trọng tiềm lực chính trị tinh thần, nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng.
Cùng với việc phát huy sức mạnh tổng hợp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, phải thường xuyên nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng; giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với LLVT và sự nghiệp quốc phòng, an ninh; tập trung lãnh đạo xây dựng LLVT tỉnh “tinh, gọn, mạnh” và thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng trong triển khai thực hiện hiệu quả đối ngoại quốc phòng và ngoại giao nhân dân; mở rộng quan hệ với các địa phương, các doanh nghiệp nước ngoài... tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư phát triển kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh vững chắc.
----------
Thiếu tướng, TS LƯƠNG ĐÌNH LÀNH, Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 2:
Xây dựng kế hoạch, phương án bảo đảm chắc thắng
Đặc điểm nổi bật của quá trình tổ chức chuẩn bị Chiến dịch Tây Nguyên là trải qua 3 lần nhận nhiệm vụ và 3 lần điều chỉnh kế hoạch; phản ánh sự phát triển mau lẹ của tình hình trong thời kỳ cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước. Lần thứ ba, ngày 21-1-1975, nhiệm vụ của Chiến dịch Tây Nguyên được Quân ủy Trung ương và Bộ tổng Tư lệnh giao chính thức với mục tiêu chủ yếu là thị xã Buôn Ma Thuột.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình địch, thủ đoạn phòng ngự và biện pháp tăng cường phòng ngự dự phòng của địch, Bộ tư lệnh Chiến dịch đã chuẩn bị 2 phương án tác chiến để bảo đảm chắc thắng. Phương án 1: Đánh địch chưa có phòng ngự dự phòng. Phương án 2: Đánh quân địch đã có lực lượng tăng cường phòng ngự dự phòng. Hai phương án có hai cách sử dụng lực lượng và vận dụng cách đánh cụ thể khác nhau, mỗi phương án có thuận lợi và khó khăn riêng.
Trong công tác chuẩn bị tác chiến phải chuẩn bị cho cả hai phương án, lấy phương án 2 (phương án khó nhất) để triển khai mọi công tác chuẩn bị; mặt khác, ra sức giữ bí mật và tích cực hoạt động nghi binh để tranh thủ thực hiện phương án 1. Thực tế chiến dịch diễn ra sau đó cho thấy, ta đã nổ súng đánh địch theo phương án 1 trong điều kiện chuẩn bị theo phương án 2 nên có nhiều thuận lợi hơn.
Những kinh nghiệm của Chiến dịch Tây Nguyên là những kinh nghiệm của một hướng chiến lược, một chiến trường, một loại địa hình. Những kinh nghiệm đó phản ánh những nét riêng biệt của Chiến dịch Tây Nguyên, song cũng phản ánh những cái phổ biến của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 và của nghệ thuật chiến dịch nói chung. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết và khái quát thành những nguyên tắc, quy luật chung về tác chiến chiến dịch, xây dựng hệ thống lý luận hoàn chỉnh nghệ thuật chiến dịch Việt Nam, vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong tác chiến tương lai, đánh bại mọi kẻ thù nếu chúng liều lĩnh gây chiến tranh xâm lược nước ta.
----------
Thiếu tướng, PGS, TS ĐINH XUÂN THANH, Chủ nhiệm Khoa Chiến lược, Học viện Quốc phòng:
Nghệ thuật tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng
Chiến thắng Tây Nguyên mở đầu Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là điển hình của hoạt động tác chiến hiệp đồng binh chủng.
Trong chiến dịch, Bộ đội Tăng thiết giáp đã phát huy sức mạnh đột kích, vừa cùng với bộ binh, pháo binh đập tan hệ thống phòng ngự của địch, vừa dẫn đầu thọc sâu nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu quan trọng, cũng như truy kích quân địch rút chạy. Với hỏa lực mạnh, Bộ đội Pháo binh đã phát huy cao độ sức mạnh công phá và khả năng chế áp địch khi bộ binh ta tiến công, đánh địch trong hành tiến, đánh địch đổ bộ đường không và địch rút chạy.
Bộ đội Phòng không đã tập trung lực lượng yểm trợ cho các trận then chốt chiến dịch; kết hợp chặt chẽ các loại hỏa lực phòng không tạo nên lưới lửa phòng không nhiều tầng, nhiều hướng, có hỏa lực luồn sâu, thực hành chiến thuật chia cắt đường không, tiêu diệt máy bay địch, bảo vệ cho đội hình tiến công của binh chủng hợp thành.
Là lực lượng luồn sâu đánh hiểm, Bộ đội Đặc công với cách đánh bí mật, bất ngờ, táo bạo đã hiệp đồng chặt chẽ với các binh chủng khác trong đội hình chiến dịch thực hành đánh địch. Lực lượng Công binh trên các hướng, mũi tiến công đã tiến hành khắc phục vật cản, mở cửa mở cho bộ binh, xe tăng và hộ tống xe tăng cơ động tiến vào đánh các mục tiêu bên trong thị xã, góp phần tích cực vào thắng lợi chung của chiến dịch. Bộ đội Thông tin liên lạc đã tổ chức triển khai kịp thời, đảm bảo thông tin vững chắc với nhiều phương tiện thông tin hình thành mạng lưới thông tin nhiều cấp, nhiều hướng, từ cấp chiến thuật đến chiến dịch.
Để không ngừng nâng cao khả năng tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng, đòi hỏi phải chăm lo xây dựng LLVT ba thứ quân vững mạnh, có cơ cấu hợp lý. Xây dựng LLVT nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại theo hướng tinh, gọn, mạnh, trong đó tập trung hiện đại hóa một số quân, binh chủng như: Hải quân, Phòng không-Không quân, Thông tin liên lạc, Tác chiến điện tử; không ngừng nâng cao sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu, thực sự là lực lượng chủ lực cơ động mạnh, nòng cốt của thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp, vì đây là lực lượng tại chỗ đông đảo nhất, nhanh nhất, kịp thời nhất và là chỗ dựa vững chắc của nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
----------
Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Vi Hợi:
Sức mạnh của tình đồng đội
Là người trực tiếp tham gia Chiến dịch Tây Nguyên, trên cương vị Tiểu đội trưởng thuộc Trung đoàn 64, Sư đoàn 320, chỉ huy tiểu đội đánh địch rút chạy ở thị xã Cheo Reo, đồng chí Nguyễn Vi Hợi, Anh hùng LLVT nhân dân xúc động sau 50 năm trở lại Tây Nguyên và phát biểu tại buổi tọa đàm. Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Vi Hợi bày tỏ lòng biết ơn và sự tri ân sâu sắc những người đồng đội đã ngã xuống để làm nên Chiến thắng Tây Nguyên vang dội.
“Chúng tôi tham gia chiến dịch với ý chí chiến đấu, khát vọng chiến thắng mãnh liệt, đặc biệt là tình đồng chí, đồng đội keo sơn, luôn sẵn sàng vì nhau, sẵn sàng hy sinh cho nhau. Danh hiệu cao quý Anh hùng LLVT nhân dân và những tấm huân chương, huy chương tôi được Đảng, Nhà nước trao tặng và đang đeo ngày hôm nay là nhờ sự hy sinh xương máu của đồng đội. Nhưng hiện nay vẫn còn hàng nghìn đồng đội của tôi chưa tìm được hài cốt, chưa được trở về quê hương”, đồng chí Nguyễn Vi Hợi xúc động nói.
Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Vi Hợi cho rằng, Chiến thắng Tây Nguyên là chiến thắng lịch sử, tạo bước ngoặt quyết định, đưa cuộc tiến công chiến lược của ta phát triển thành cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam. Để có chiến thắng này, bên cạnh sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, linh hoạt của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh và của Đảng ủy, Bộ tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên, còn có sức mạnh của quần chúng nhân dân, sự chiến đấu mưu trí, dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam. “Trong quá trình tham gia Chiến dịch Tây Nguyên, chúng tôi đi đến đâu cũng dựa vào quần chúng nhân dân, được nhân dân hết lòng đùm bọc, giúp đỡ”, Anh hùng LLVT Nguyễn Vi Hợi nhấn mạnh.
----------
Đại tá TRẦN DUY HẢI, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn Phòng không 234, Quân đoàn 34:
Tổ chức sử dụng, bố trí lực lượng phòng không hợp lý
Trong suốt quá trình tham gia Chiến dịch Tây Nguyên, Trung đoàn Phòng không 234 (nay là Lữ đoàn) liên tục chiến đấu trong đội hình binh chủng hợp thành từ Đức Lập qua Buôn Ma Thuột, dọc Đường 21 đến Nha Trang, Cam Ranh. Vượt lên khó khăn, gian khổ, ác liệt, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu đánh máy bay địch, bảo vệ đội hình tiến công của binh chủng hợp thành. Trung đoàn đã đánh 105 đợt, trong đó có 19 đợt cấp trung đoàn, 42 đợt cấp tiểu đoàn, 44 đợt cấp đại đội, 75 đợt đánh có công sự và 19 đợt đánh không có công sự, 19 đợt đánh trong hành tiến. Các đơn vị phòng không đã bắn rơi 35 máy bay các loại, có 13 chiếc rơi tại chỗ, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên.
Bài học chủ yếu về nghệ thuật sử dụng phòng không trong Chiến dịch Tây Nguyên là xây dựng được yếu tố chính trị tinh thần cho bộ đội trong tác chiến hiệp đồng binh chủng; làm tốt công tác chuẩn bị, nhất là chuẩn bị về vật chất, phương tiện kỹ thuật và con người; tổ chức sử dụng, phân chia lực lượng phòng không, bố trí hợp lý chi viện cho bộ binh, xe tăng đánh chiếm các mục tiêu.
Ngày nay, với chức năng là đơn vị phòng không, thường xuyên sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ) trong những tình huống nhanh, ác liệt, phải đối mặt với những thủ đoạn chiến tranh đường không hết sức đa dạng, phương tiện chiến tranh hiện đại, có khả năng phòng vệ tốt; vì thế, yêu cầu đặt ra đối với Lữ đoàn Phòng không 234 là phải tăng cường công tác huấn luyện, nâng cao trình độ SSCĐ, làm chủ vũ khí, trang bị cho bộ đội. Muốn vậy, phải thường xuyên đổi mới công tác giáo dục chính trị, góp phần nâng cao nhận thức cho bộ đội về vị trí đặc biệt quan trọng của nhiệm vụ chiến đấu phòng không đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; về nhiệm vụ huấn luyện SSCĐ... Tập trung nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, làm cơ sở nâng cao chất lượng huấn luyện của đơn vị. Đặc biệt coi trọng những vấn đề phát triển của nghệ thuật quân sự và vũ khí, trang bị; kết hợp chặt chẽ giữa công tác huấn luyện SSCĐ, ứng phó có hiệu quả với các tình huống tác chiến phòng không; không để bị động, bất ngờ, bảo vệ vững chắc vùng trời của Tổ quốc.
----------
Đại tá ĐINH QUANG THÁI, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn Công binh 7, Quân đoàn 34:
Mở đường tạo hành lang cho chiến dịch
Trong Chiến dịch Tây Nguyên, Lữ đoàn Công binh 7 là một trong những lực lượng công binh chủ yếu trên chiến trường, được giao nhiều nhiệm vụ cùng một lúc, như: Bảo đảm đường, bảo đảm vượt sông, bảo đảm cho binh khí kỹ thuật cơ động.
Để thực hiện kế hoạch nghi binh lừa địch, từ tháng 9-1974, Lữ đoàn kết hợp với dân công rầm rộ triển khai mở các trục đường ở Bắc Tây Nguyên để nghi binh. Cùng lúc đó chuẩn bị cho hướng tiến công Buôn Ma Thuột, Lữ đoàn sử dụng hai tiểu đoàn công trình và một tiểu đoàn cầu phà tổ chức bảo đảm 3 bến vượt trên sông Sêrêpôk, làm đường bảo đảm cho binh khí kỹ thuật cơ động đánh vào thị xã và hộ tống xe tăng ở phía Bắc.
Ở hướng Đức Lập, Lữ đoàn được giao nhiệm vụ xây dựng mạng đường phục vụ cho đánh quận lỵ Đức Lập. Bộ tư lệnh Chiến dịch yêu cầu trước giờ nổ súng, đường cơ giới chỉ được làm cách thị xã 10-12km, làm đến đâu tổ chức ngụy trang kỹ đến đó để giữ bí mật ý định tác chiến. Đoạn đường còn lại phải trinh sát kỹ, đánh dấu cẩn thận; các cây to nằm trên đường được cưa sát gốc, sâu 2/3 đến 3/4 đường kính của cây để duy trì cho cây sống. Khi có lệnh cần mở đường, công binh chỉ cần mở cấp tốc 10 giờ là hoàn thành cho xe tăng húc đổ cây, dọn tuyến để lực lượng ta cơ động. Từ ngày 2-11 đến 6-12-1974, hai tiểu đoàn đã làm được 136km, trong đó 63km mở mới.
Ngày 13-1-1975, những chuyến phà đầu tiên chở tăng, pháo và lực lượng chiến đấu vượt sông. Hằng đêm, bộ đội công binh ghép cầu từ 18 giờ 30 phút và bảo đảm vượt sông đến 5 giờ sáng hôm sau. Do tổ chức vượt sông bằng cả hai hình thức cầu và phà, có sự hiệp đồng điều chỉnh giao thông hợp lý, nên mỗi trung đoàn tăng, pháo vượt qua mỗi bến chỉ hết 2 đêm. Mỗi bến trong 1 giờ chở được 4 chuyến phà. Các đơn vị qua sông nhanh, kịp cơ động đến vị trí tập kết an toàn, bảo đảm yếu tố bí mật.
Ngày 9-3-1975, pháo chiến dịch đồng loạt bắn vào các vị trí chủ yếu của địch. Trong đêm, các đơn vị của Lữ đoàn đã chuyên chở được 20 chuyến xe, pháo qua sông; bảo đảm vượt sông bằng phà 50 tấn, phà 35 tấn được 55 chuyến qua sông (chở được 188 lần chiếc xe, pháo, trong đó có 8 xe tăng). Như vậy, Lữ đoàn Công binh 7 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo đảm công binh, tạo hành lang cho chiến dịch bảo đảm bí mật, bất ngờ, góp phần vào thắng lợi.
----------
Đại tá, ThS TRẦN HUY ĐỊNH, Trưởng phòng Khoa học quân sự, Quân khu 7:
Nghệ thuật nghi binh trong Chiến dịch Tây Nguyên
Nghệ thuật tạo bất ngờ thường gắn liền với tiên đoán chính xác các tình huống chiến dịch, lập kế hoạch tác chiến đúng đắn và xử trí linh hoạt để giành thắng lợi. Trong Chiến dịch Tây Nguyên, ta xác định trận đánh Buôn Ma Thuột có thể diễn ra một trong hai tình huống: Quân địch có hoặc không có phòng ngự dự phòng thị xã. Trên cơ sở dự đoán hai tình huống, ta đã lập kế hoạch chiến dịch gồm hai phương án tác chiến, phù hợp với hai tình huống.
Song ý định chiến dịch của ta là cố gắng tìm mọi biện pháp không cho địch tăng cường lực lượng phòng ngự dự phòng trong thị xã. Để đạt ý định đó, ta đã kiên trì tiến hành một loạt biện pháp công phu và tích cực: Giữ bí mật ý định và hành động, đồng thời tiến hành nghi binh chiến dịch... Quá trình thực hiện mưu kế đó, ta đã lợi dụng triệt để những suy đoán sai lầm chủ quan của địch và liên tục củng cố sai lầm đó của chúng, dẫn dắt và hướng chúng hành động theo ý định của ta. Bằng cách cố gắng gạn lọc để loại trừ các tình huống nguy hại, hạn chế các tình huống bất lợi cho ta, ta đã chủ động bắt địch hành động theo ý định của ta với tình huống có lợi nhất cho ta.
Thực tế, cho đến trước khi trận then chốt của chiến dịch, trận tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột diễn ra vào sáng 10-3-1975, các đơn vị đã thực hiện xuất sắc nghệ thuật nghi binh chiến dịch, giữ bí mật, bất ngờ đến phút cuối cùng. Trên hướng Bắc Tây Nguyên, Sư đoàn 968 tiếp tục bao vậy quận lỵ Thanh An, áp sát Tây Pleiku, khiến Trung đoàn 45 ngụy phải đối phó rất chật vật. Trung đoàn 95A liên tiếp đánh bại các đợt phản kích của địch trên Đường 19, ghìm chân Liên đoàn Biệt động quân số 4, giữ vững đoạn đường đã chiếm. Sư đoàn 3 mở rộng đoạn đã chiếm trên Đường 19 và ghìm chân Sư đoàn 22 của địch. Ở hướng Nam Tây Nguyên, tuy Thuần Mẫn bị mất, Đức Lập bị tiến công dồn dập nhưng đến chiều 9-3, địch vẫn chưa đoán được ý định tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột.
Nghi binh trong Chiến dịch Tây Nguyên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần đặc biệt quan trọng vào thắng lợi chung của chiến dịch.