Tinh thần tự cường nhìn từ tầng lớp tư sản dân tộc Việt Nam

Xu hướng tự cường của tầng lớp tư sản dân tộc người Việt đã hình thành và phát triển mạnh từ đầu thế kỷ 20. Tầng lớp này đã góp phần không nhỏ trong việc hình thành nền tảng ngành công nghiệp sản xuất ở Việt Nam sau 1975 và tạo thành những thương hiệu còn tồn tại đến nay. Dù bối cảnh thời kỳ mới có khác nhưng việc phát triển nền kinh tế trên nền tảng tự chủ, tự cường vẫn không thay đổi.

Vượt qua rào cản để xây dựng thương hiệu đậm bản sắc Việt

Sự hình thành của tầng lớp tư sản dân tộc Việt Nam diễn ra trong bối cảnh thực dân Pháp đẩy mạnh công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 19. Đến năm 1906, bên cạnh khoảng 200 nhà máy của tư sản Pháp, đã có nhiều nhà máy do tư sản Việt Nam sở hữu, riêng Sài Gòn đã có 20 nhà máy xay xát lúa.

Do muốn mở rộng tầm hoạt động hàng hải khắp Đông Dương và sang Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, và Philippines, năm 1922, Bạch Thái Bưởi đã ký hợp đồng thuê tàu chở hàng chạy bằng hơi nước (ảnh) của người Pháp.Ảnh: Trung tâm Lưu trữ quốc gia

Do muốn mở rộng tầm hoạt động hàng hải khắp Đông Dương và sang Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, và Philippines, năm 1922, Bạch Thái Bưởi đã ký hợp đồng thuê tàu chở hàng chạy bằng hơi nước (ảnh) của người Pháp.Ảnh: Trung tâm Lưu trữ quốc gia

Tầng lớp tư sản Việt Nam có nguồn gốc xã hội đa dạng, không có tiền đề kinh tế lớn từ trước mà chủ yếu xuất thân từ các nhà buôn, thầu khoán, chủ xưởng sản xuất, sĩ phu tiến bộ và một phần là địa chủ.

Giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam trong giai đoạn 1900-1975 là một lực lượng kinh tế và xã hội có vai trò đặc biệt trong lịch sử đất nước. Ra đời trong bối cảnh khai thác thuộc địa của Pháp, những doanh nhân này đã vượt qua nhiều rào cản chính sách để xây dựng các thương hiệu và sản phẩm mang đậm bản sắc Việt, cạnh tranh với tư bản ngoại quốc.

Mặc dù đối mặt với nhiều rào cản từ chính sách thuộc địa, giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam không chỉ đóng vai trò là lực lượng kinh tế mà còn thể hiện ý thức dân tộc rõ rệt. Họ đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thay đổi cơ cấu ngành kinh tế và tạo nên sự phồn thịnh ở các trung tâm kinh tế tỉnh lỵ, đặc biệt là ở Nam Kỳ.

Doanh nhân Trương Văn Bền (1883-1956).Ảnh: Trung tâm Lưu trữ quốc gia

Doanh nhân Trương Văn Bền (1883-1956).Ảnh: Trung tâm Lưu trữ quốc gia

Lực lượng này đã thành lập nhiều công ty và tự điều hành sản xuất trong các lĩnh vực đa dạng, từ xay xát lúa gạo, in ấn, dệt nhuộm, vận tải, sửa chữa cơ khí đến sản xuất sơn, xà bông, đường, nước mắm, đồ gốm. Các công ty tiêu biểu trong giai đoạn này bao gồm Quảng Nam hiệp thương công ty, Quảng Hưng Long, Đông Thành Xương, Bạch Thái Bưởi và Công ty Liên Thành.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, hoạt động kinh doanh của tư sản Việt Nam mở rộng hơn về ngành nghề và quy mô, với công nghệ hiện đại hơn. Nhiều cơ sở kinh tế đã có từ trước tiếp tục phát triển, mở rộng quy mô sản xuất và thiết bị kỹ thuật, như xưởng sơn của Nguyễn Sơn Hà, xưởng sửa chữa và đóng tàu của Bạch Thái Bưởi, xưởng dệt của Lê Phát Vĩnh. Bên cạnh đó, nhiều cơ sở sản xuất mới được thành lập như Nhà máy gạc Hưng Ký (Bắc Ninh), Xí nghiệp dệt Vĩnh An (Huế) và các công ty phát điện ở Nam Kỳ.

Kinh doanh với tinh thần tự cường, tự tôn dân tộc

Những thương hiệu Việt Nam này đã trở thành biểu tượng của tinh thần tự cường dân tộc trong kinh tế thời Pháp thuộc. Với họ, kinh doanh không chỉ là mục tiêu kiếm lời mà còn là phương tiện để khẳng định vị thế và lòng tự tôn dân tộc. Việc họ gắn kết kinh doanh với các khẩu hiệu yêu nước, ủng hộ hàng nội địa thậm chí hy sinh tài sản cho cách mạng. Điều này đã biến hoạt động kinh tế thành một phần của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, góp phần xây dựng ý thức quốc gia và chống lại sự thống trị của ngoại bang.

Tầng lớp tư sản dân tộc Việt Nam không chỉ đóng góp vào sự phát triển kinh tế mà còn có vai trò quan trọng trong các phong trào chấn hưng văn hóa và giáo dục, góp phần nâng cao dân trí và tinh thần dân tộc.

Sản phẩm xà bông cô Ba, thương hiệu quốc dân một thời.Ảnh: Trung tâm Lưu trữ quốc gia

Sản phẩm xà bông cô Ba, thương hiệu quốc dân một thời.Ảnh: Trung tâm Lưu trữ quốc gia

Họ đã tích cực kêu gọi và động viên người Việt Nam kinh doanh, phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa đồng thời cổ động nhân dân dùng hàng nội hóa nhằm khuyến khích kinh tế dân tộc phát triển và chống lại sự lấn át của hàng hóa nước ngoài. Để bảo vệ lợi ích chung, những người này đã thành lập phòng thương mại của người Việt Nam.

Không chỉ dừng lại ở hoạt động kinh doanh, nhiều nhà tư sản dân tộc còn thể hiện ý thức yêu nước sâu sắc thông qua việc tham gia vào các phong trào chính trị - xã hội và sử dụng báo chí làm phương tiện truyền bá tư tưởng canh tân, dân chủ. Các tờ báo như Khai Hóa, Nông Cổ Mín Đàm hay các tờ báo yêu nước khác đã minh chứng cho vai trò trong việc định hình nhận thức và khơi dậy tinh thần dân tộc.

Trong giai đoạn 1955-1975 tại miền Nam Việt Nam chứng kiến sự ra đời và phát triển của nhiều thương hiệu nội địa thành công tiếp nối từ thời Pháp thuộc của xà bông Cô Ba, được xem là thương hiệu “quốc dân” đầu tiên của người Việt. Nhiều thương hiệu Việt hàng tiêu dùng khác cũng chiếm lĩnh thị phần lớn như kem đánh răng Hynos, bột giặt Viso, mỹ phẩm Thorakao, bột ngọt Vị Hương Tố hay tập học sinh Cogido. Trong giai đoạn này, ngành sản xuất công nghiệp cũng phát triển mạnh với các công ty dệt may lớn của Việt Nam như Phong Phú, Vinatexco, Vimitex. Ngành ô tô cũng xuất hiện thương hiệu xe con La Dalat hợp tác với hãng xe hơi Pháp Citroën có tỷ lệ nội địa hóa lên đến 40%.

Di sản của giai cấp tư sản dân tộc từ 1900 đến 1975 là một phần không thể thiếu trong bức tranh lịch sử kinh tế và phong trào yêu nước Việt Nam. Họ không chỉ góp phần phát triển kinh tế, tạo ra của cải vật chất mà còn là những người tiên phong trong việc xây dựng thương hiệu Việt, thể hiện ý chí tự chủ và đóng góp vào công cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước.

Phước Vinh

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/tinh-than-tu-cuong-nhin-tu-tang-lop-tu-san-dan-toc-viet-nam/
Zalo