Tinh thần độc lập và vị thế Việt Nam
Lịch sử dựng nước và giữ nước Việt Nam đã bao phen sóng gió, nhân dân ta buộc phải cầm vũ khí để giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc. Thứ vũ khí lợi hại nhất, bách chiến bách thắng của dân tộc ta là lẽ phải, là ý chí độc lập, tự do, đoàn kết triệu người như một để 'kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn'. Mỗi lần đánh đuổi được quân xâm lược, ông cha ta lại tuyên ngôn về sự độc lập của dân tộc mình.
Sự độc lập của dân tộc Việt Nam như một chân lý, sáng tỏ, bất kể kẻ nào xâm phạm đến điều đó cũng là nghịch đạo, trái với lẽ phải, nhất định phải thất bại, như Lý Thường Kiệt đã viết: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/ Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”. Nguyễn Trãi, trong "Bình Ngô đại cáo" cũng khẳng định tính chính danh của nền độc lập dân tộc ta. Việt Nam khiêm nhường nhưng không cúi đầu! Bởi chúng ta có văn hiến độc lập từ lâu đời, một sự thật không thể phủ nhận: “Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu... Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập/ Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”...

Các tầng lớp nhân dân cổ vũ lực lượng diễu binh, diễu hành tại Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 / 30-4-2025). Ảnh: TUẤN HUY
Ý chí độc lập và thực tế lịch sử đã minh chứng hùng hồn về độc lập của dân tộc ta trước các thế lực hùng mạnh, hiếu chiến. Tuy nhiên, để có được nền độc lập ấy, dân tộc ta luôn chịu thử thách ghê gớm từ các thế lực ngoại bang: Hàng nghìn năm Bắc thuộc, hàng trăm năm dưới ách thực dân, phong kiến, người Việt Nam hiểu cái giá của độc lập, tự do dân tộc.
Có thể nói, trong suốt chiều dài lịch sử, chỉ sau khi Tuyên ngôn Độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội, ngày 2-9-1945, Việt Nam mới thực sự bước ra trường quốc tế với tư cách một nước độc lập, bình đẳng trước các dân tộc khác trong cộng đồng thế giới. Vị thế Việt Nam mới được khẳng định là Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Độc lập-Tự do-Hạnh phúc.
Từ một đất nước với hơn hai triệu người chết đói, hơn 90% dân số mù chữ, thế giới chỉ biết một Việt Nam trong xứ Đông Dương thuộc Pháp, ngày nay Việt Nam đã có vị thế cao trên trường quốc tế, khi nước ta là hình mẫu của xóa đói, giảm nghèo, non sông thống nhất, tất cả các tỉnh, thành phố đều đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS... khác xa với điều kiện đất nước còn non trẻ năm 1945.
Vậy điều gì đã làm nên vị thế Việt Nam trên trường quốc tế ngay từ những ngày đầu khó khăn ấy? Chính là tinh thần độc lập. Ngay từ dòng đầu tiên của Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý không thể phủ nhận, lấy từ bản "Tuyên ngôn độc lập" của nước Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Người khẳng định: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”!
Sự khẳng định này sâu sắc và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ trong phong trào chống đế quốc, thực dân, giải phóng dân tộc trên phạm vi toàn thế giới. Nó không chỉ khẳng định cho Việt Nam, mà còn khẳng định cho mọi dân tộc đang bị cướp mất quyền bình đẳng và độc lập dân tộc. Phải chăng, chính điều đó đã đưa Việt Nam lên vị trí hàng đầu trên thế giới trong phong trào giải phóng dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà các nước châu Phi, Mỹ Latin lại luôn đề cao Việt Nam, ủng hộ Việt Nam, lấy Việt Nam là hình mẫu trong đấu tranh giành độc lập dân tộc. Việt Nam khẳng định tính chính danh, đúng đắn của mình trong đấu tranh giành độc lập, tự do không chỉ cho Việt Nam mà cho tất cả các dân tộc đang bị áp bức trên toàn thế giới.
Rõ ràng, ngay từ khi ra đời, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã chọn vị trí trong đội ngũ lực lượng yêu chuộng hòa bình và tiến bộ của loài người. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố với thế giới cách đây tròn 80 năm rằng: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”... “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Tám mươi năm qua với bao gian khổ, hy sinh, dân tộc Việt Nam đã thể hiện cho thế giới thấy rằng: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Đó là chân lý thời đại, nguyên tắc bất di bất dịch của một dân tộc khiêm nhường, bao dung, yêu chuộng hòa bình. Chúng ta sẵn sàng “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” là bởi chúng ta yêu hòa bình, coi trọng cuộc sống của nhân dân ta và cộng đồng quốc tế. Điều đó không có nghĩa là quên quá khứ, càng không có gì thay đổi trong nguyên tắc bất di bất dịch: Không có gì quý hơn độc lập, tự do!
Chúng ta hiểu giá trị của nó và cả cái giá phải trả bằng xương máu, nước mắt của biết bao thế hệ người Việt Nam. Kinh nghiệm xương máu trong giữ nước và dựng nước đã tôi luyện ý chí con người Việt Nam, “lương tri, phẩm giá loài người” thế ứng xử tự chủ, tự tin vì những điều tốt đẹp mà dù là ai, dân tộc nào cũng mong muốn.
Việt Nam sẵn sàng là bạn với tất cả các nước và thực tế đã và đang là đối tác đáng tin cậy của cộng đồng quốc tế. Chúng ta có quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới; có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với nhiều nước phát triển. Việt Nam chưa giàu nhưng sẵn sàng chia sẻ khó khăn cùng cộng đồng mỗi khi có thiên tai, dịch họa. Sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ những nước còn nghèo bằng kinh nghiệm và sức lực một cách tận tình, hiệu quả. Người dân các nước châu Phi yêu quý và tin tưởng các chiến sĩ Việt Nam làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình. Tình cảm ấy tự nhiên và chân thực hơn mọi hình thức tô vẽ và những lời hoa mỹ về tình hữu nghị.
Vị thế Việt Nam hôm nay cần nhìn nhận từ sự thân thiện, tin tưởng của cộng đồng quốc tế, từ tư cách thành viên có trách nhiệm của Việt Nam trên thế giới. Trong tình hình thế giới đang rất phức tạp, khó lường, tiếng súng đã nổ và những cuộc tranh chấp quyền lực giữa các siêu cường, những đòi hỏi về địa-chính trị đang có những khác biệt, Việt Nam vững vàng trong điều kiện ấy chính là bởi nền ngoại giao văn hóa có tính truyền thống được phát huy cao độ, vững chắc mà uyển chuyển. Đó là ngoại giao độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, mà bản chất là độc lập, tự do của dân tộc, đồng thời tôn trọng độc lập, tự do của các dân tộc khác, tôn trọng đạo lý, tôn trọng lẽ phải.
Ngay cả khi “gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít” cũng là chọn đạo lý, chọn lẽ phải, chọn và tin tưởng điều thiện sẽ thắng cái ác; cái tốt đẹp, nhân văn sẽ thắng xấu xa, bạo tàn. Là truyền thống văn hóa Việt Nam “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Chính sách quốc phòng của Việt Nam là không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế là chính sách hoàn toàn đúng đắn. Quốc phòng toàn dân, toàn diện, truyền thống và hiện đại, kiên quyết giữ vững độc lập, tự do là ý chí và nguyện vọng của chúng ta, là chân lý, là lẽ phải và là sức mạnh vô địch đã được kiểm chứng suốt chiều dài lịch sử.
Cho đến nay, tinh thần độc lập, tự cường, chính danh, quảng đại của Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 vẫn nguyên giá trị khi chúng ta bước vào kỷ nguyên phát triển mới. Khát vọng trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045 là khát vọng chính đáng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, cũng là lẽ phải của một dân tộc đã kiên cường, sáng tạo vượt qua bao gian khó để có độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Dân tộc ấy phải phát triển, phải có hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Chúng ta đang bước vào kỷ nguyên vươn mình với tinh thần vì một Việt Nam độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm châu như mong ước của Bác Hồ!