Tinh thần chủ động sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng những năm đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới thành lập đã phải đối phó với muôn vàn khó khăn, thách thức, nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của Đảng, nhân dân Việt Nam vừa giữ vững được chính quyền cách mạng, vừa bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự do của đất nước.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng tuyên bố trước toàn thể quốc dân, đồng bào và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với những quyền dân tộc cơ bản của một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Tuy nhiên, ngay sau khi thành lập, chính quyền cách mạng Việt Nam phải đối phó với một tình thế hết sức hiểm nghèo, bởi sự hoành hành của nạn đói, nạn dốt và giặc ngoại xâm, bên trong các thế lực phản động vẫn còn đang cấu kết với nhau chống lại chính quyền cách mạng. Bên ngoài các thế lực đế quốc vẫn chưa từ bỏ âm mưu can thiệp và xâm lược đất nước ta. Trong khi đó, hệ thống chính quyền từ Trung ương đến cơ sở mới thành lập còn chưa được hoàn thiện trên phạm vi cả nước. Nguy hiểm hơn là chỉ sau 3 tuần ngày lễ độc lập của dân tộc, quân Pháp đã trở lại xâm lược Việt Nam một lần nữa. Điều đó cho thấy, lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền đã khó, giữ vững chính quyền cách mạng và bảo vệ nền độc lập của đất nước trong tình thế “nghìn cân treo sợi tóc” đối với Đảng ta càng trở nên khó khăn gấp bội.
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá chính xác tình hình thế giới, khu vực, nhất là những nguy cơ, thách thức lớn trong nước, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời hoạch định đường lối chính trị đúng đắn, giữ vững nguyên tắc chiến lược và linh hoạt trong sách lược với những chủ trương và biện pháp lớn như sau:
Thứ nhất, Xây dựng, củng cố, bảo vệ chính quyền cách mạng và chế độ xã hội mới
Để giữ vững và phát huy thành quả cách mạng vừa giành được, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu được Đảng ta xác định là: xây dựng bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân từ Trung ương đến địa phương phù hợp với đặc điểm tình hình của đất nước. Xây dựng chính quyền phải đi đôi với bảo vệ chính quyền, hai nhiệm vụ quan trọng này không được tách rời nhau. Đồng thời, phải luôn gắn nhiệm vụ bảo vệ chính quyền non trẻ với nhiệm vụ xây dựng chế độ xã hội mới. muốn bảo vệ được chính quyền cách mạng thì phải xây dựng chính quyền dân chủ, thực sự vững mạnh về mọi mặt, đủ sức tự bảo vệ.
Ngay sau khi trở về Thủ đô, dưới sự lãnh đạo của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam đã cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 3/9/1945 tại Bắc Bộ Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì phiên họp đầu tiên của Chính phủ. Người đã thay mặt Chính phủ nêu lên “những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”; giải quyết nạn đói, nạn dốt; tổ chức tổng tuyển cử; giáo dục tinh thần của nhân dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính; bỏ những thứ thuế vô nhân đạo; cấm hút thuốc phiện và đề nghị Chính phủ tuyên bố: “TÍN NGƯỠNG TỰ DO và lương giáo đoàn kết” (1). Tiếp đó, ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, trong đó xác định nhiệm vụ hàng đầu, bao trùm nhất của cách mạng lúc đó là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược. Đồng thời, đề ra phương hướng lãnh đạo đẩy nhanh việc tiến hành cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, thành lập Chính phủ chính thức, xây dựng hệ thống chính quyền hợp pháp từ Trung ương đến địa phương.
Cuộc Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946, bầu ra những đại biểu, đại diện cho các tầng lớp nhân dân khắp 3 miền tham gia Quốc hội. Sự ra đời của Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước là một thắng lợi lớn của đường lối củng cố chính quyền cách mạng của Đảng, tạo cơ sở pháp lý về quyền lực của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Kết quả đó đã giáng một đòn mạnh vào âm mưu chia rẽ, lật đổ và xâm lược của các thế lực đế quốc, tay sai. Từ đây, một Chính phủ chính thức - cơ quan hành pháp của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc hội quyết nghị thành lập với tên gọi Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Đến tháng 11/1946, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội biểu quyết tán thành Chính phủ mới, gồm 14 thành viên, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ở các địa phương, nhân dân đã bầu ra Hội đồng nhân dân các cấp. Hội đồng nhân dân cử ra Ủy ban hành chính thay cho Ủy ban lâm thời được thành lập trong tổng khởi nghĩa. Ngày 9/11/1946 tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước ta. Với sự ra đời của Hiến pháp năm 1946, tính hợp hiến và hợp pháp của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được xác lập.
Như vậy, hệ thống bộ máy Nhà nước (cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp) từ Trung ương đến địa phương đã từng bước hoàn thiện, với đầy đủ uy tín, hiệu lực pháp lý trong thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại, quản lý, điều hành mọi hoạt động của đất nước.
Nhằm tăng cường sức mạnh về chính trị, Đảng chủ trương tiếp tục mở rộng Mặt trận Việt Minh và ngày 29/5/1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam được thành lập là cơ sở chính trị - xã hội rộng lớn, là chỗ dựa cho chính quyền nhân dân trong những năm tháng đầu tiên quản lý đất nước, chống thù trong, giặc ngoài. Cùng với đó Đảng chủ trương xây dựng và phát triển các công cụ bạo lực của cách mạng như quân đội, công an...
Thứ hai, khắc phục những khó khăn về kinh tế, văn hóa xã hội
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, để chiến thắng thù trong, giặc ngoài bảo vệ và xây dựng chính quyền cách mạng, nhiệm vụ đẩy lùi nạn đói đã trở thành cần kíp, rất quan trọng đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Bởi vì, nạn đói lan rộng, hoành hành sẽ làm xói mòn sức mạnh dân tộc, đe dọa cuộc sống mọi người. Dân có ấm no thì chính quyền mới được giữ vững, củng cố; đất nước mới yên. Vì thế Đảng và Chính phủ kiên quyết lãnh đạo toàn dân tập trung giải quyết nạn đói, nhằm cải thiện một bước đời sống nhân dân; ổn định cuộc sống xã hội, tạo nên một sức sống mới cho dân tộc. Phong trào diệt giặc đói được phát động trên cả nước. Trong thư gửi nhân dân toàn quốc về việc chống giặc đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị: “Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo” (2). Cả nước dấy lên nhiều phong trào: “Hũ gạo tiết kiệm”, “ngày đồng tâm”, “tăng gia sản xuất”, “tấc đất, tấc vàng”, “khai hoang phục hóa”, “khôi phục hầm mỏ”... Đồng thời, Chính phủ lâm thời ký một loạt các sắc lệnh quan trọng: Sắc lệnh ngày 7/9/1945, bãi bỏ thuế thân, Chính phủ ban hành nghị định giảm thuế 20% và miễn thuế hoàn toàn cho đồng bào vùng bị lụt bão; ngày 16/11/1945, Chính phủ ra Thông tư về việc tạm chia ruộng đất công cho dân cày nghèo. Đến đầu năm 1946 nạn đói về cơ bản bị đẩy lùi, đời sống nhân dân bước đầu ổn định.
Để khắc phục khó khăn cho nền tài chính quốc gia, Chính phủ phát động “tuần lễ vàng”, “Quỹ độc lập” và “Quỹ đảm phụ quốc phòng”.
Bằng những chủ trương, biện pháp đa dạng, tích cực, Đảng và chính quyền cách mạng các cấp đã động viên được đông đảo nhân dân tích cực hưởng ứng, tham gia vào các phong trào đẩy lùi nạn đói. Nạn đói được đẩy lùi - một nhân tố rất quan trọng tạo thuận lợi cho nhân dân ta vượt qua được những khó khăn, thử thách nghiêm trọng và chuyển nhanh đất nước vào cuộc chiến tranh lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược.
Bên cạnh các biện pháp chống nạn đói, giặc ngoại xâm và thực thi các quyền tự do, dân chủ thì các biện pháp chống nạn dốt, xóa nạn mù chữ đã được Đảng, Chính phủ quan tâm và đặt ra ngay từ đầu. Đảng, Chính phủ xác định đây là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách, bởi lẽ, người dân biết đọc, biết viết thì mới hiểu được quyền lợi và trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước. Ngày 8/9/1945, Chính phủ ra sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ. Trong lời kêu gọi chống nạn thất học, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ" (3). Từ đó, Người đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ, coi đó là bước đột phá đầu tiên để nâng cao dân trí.
Phong trào Bình dân học vụ đã nhanh chóng trở thành một phong trào sôi nổi, rộng khắp cả nước. Chỉ trong một thời gian ngắn, đã có 2,5 triệu người biết đọc, biết viết. Những kết quả đạt được tuy mới chỉ là bước đầu, song có ý nghĩa vô cùng to lớn, khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; đồng thời thể hiện tinh thần yêu nước, sự đoàn kết, đồng lòng của toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền nhân dân, bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Thắng lợi của diệt giặc đói và diệt giặc dốt có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị, xã hội và văn hóa. Đây là một trong những nhân tố chủ yếu đầu tiên tạo nên sự ổn định chính trị, niềm tin của Nhân dân vào Đảng và Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.
Thứ ba, tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ
Đối với thực dân Pháp, Đảng ta xác định, đây là kẻ thù chủ yếu của dân tộc, nên ngay từ khi chúng theo chân quân Anh vào miền Nam, lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam đã tích cực chiến đấu, kiên quyết ngăn chặn các đợt tiến công mở rộng vùng lấn chiếm của địch.
Bản Chỉ thị về Kháng chiến kiến quốc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 25/11/1945 nêu rõ: “Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng... Khẩu hiệu vẫn là “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”. Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”. Tháng 12/1945, Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam được thành lập” (4). Cuối tháng 10/1945, quân Pháp đã phá vỡ vòng vây Sài Gòn – Chợ Lớn và mở rộng đánh chiếm toàn miền Nam. Ngày 25/10/1945, Xứ ủy Nam Bộ họp tại Thiên Hộ (Mỹ Tho) đề ra các biện pháp để tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến. Cuộc chiến đấu không cân sức của nhân dân Nam Bộ chống lại một đội quân nhà nghề diễn ra hết sức ác liệt. Mặc dù không đánh bại được kế hoạch mở rộng chiến tranh của Pháp, nhưng cuộc chiến đấu của nhân dân Nam Bộ đã bắt đầu làm thất bại chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp và để lại nhiều kinh nghiệm cho cuộc kháng chiến của cả nước sau này.
Thứ tư, đấu tranh trên mặt trận ngoại giao
Để tránh đương đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc, Đảng đã đánh giá chính xác tình hình, nhận định đúng âm mưu, thủ đoạn của từng đối tượng, từng kẻ thù, đề ra đối sách hòa hoãn thích hợp và lợi dụng những mâu thuẫn giữa các kẻ thù để phân hóa, loại bỏ chúng.
Đối với Quân đội Trung Hoa dân quốc, dưới danh nghĩa quân Đồng minh vào miền Bắc Việt Nam để giải giáp quân đội Nhật, nhưng lại có âm mưu “Diệt Cộng, cầm Hồ”, song kẻ thù chính của nhân dân ta vẫn là thực dân Pháp xâm lược vì thế Đảng đã chủ trương giao thiệp “Hoa - Việt thân thiện”, tránh xung đột, hòa hoãn với chính quyền Trung Hoa dân quốc, nhân nhượng nhiều yêu sách về chính trị và kinh tế đối với đội quân Trung Hoa dân quốc và thế lực tay sai của chúng. Tuy nhiên, khi bản “Hiệp ước Pháp - Hoa” được ký kết, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời nắm thời cơ, chuyển hóa linh hoạt sang thực hiện đường lối “hòa với Pháp” để mau chóng đuổi gần 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc về nước, tránh được hiểm họa cùng lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương ký Hiệp định sơ bộ (6/3/1946) và bản Tạm ước (14/9/1946) với Pháp. Đây cũng là khoảng thời gian Đảng ta đã thành công trong chỉ đạo vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, phá kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh”, đẩy địch sa lầy ở chiến trường miền Nam, tạo điều kiện thời gian xây dựng lực lượng căn bản chuẩn bị cho kháng chiến.
Như vậy, những năm đầu thành lập nước, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khôn khéo, sáng suốt đưa ra nhiều phương lược, sách lược để xây dựng chính quyền, củng cố lực lượng, hòa hoãn với kẻ thù, chăm lo cải thiện đời sống cho nhân dân... Vì thế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân Việt Nam không những giữ vững được chính quyền cách mạng non trẻ, mà còn tạo được sức mạnh căn bản, ban đầu để chủ động bước vào kháng chiến toàn quốc.
ThS. Lê Hải Yến ( GVC. Khoa Xây dựng Đảng)
-----------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.8
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.33
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.40
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8, tr.26