Tín dụng chính sách xã hội - trụ cột trong hệ thống chính sách an sinh xã hội
Với những kết quả đạt được sau hơn một thập kỷ cả hệ thống chính trị chung tay vào cuộc, tín dụng chính sách xã hội đã trở thành một 'điểm sáng' và là một 'trụ cột' trong hệ thống các chính sách giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, đặc biệt là người nghèo và đối tượng yếu thế trong xã hội.
Ngày 14/8, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội.
Cùng dự hội nghị có Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội; các Ủy viên Hội đồng Quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội: Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh, Chủ tịch Hội Phụ nữ Việt Nam Hà Thị Nga, Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam Lương Quốc Đoàn; lãnh đạo các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương và địa phương.
Hội nghị được kết nối trực tuyến từ trụ sở Chính phủ tới điểm cầu 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Nhằm phát huy vai trò và nâng cao hơn nữa hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội, ngày 22/11/2014, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Chỉ thị số 40-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội. Trên cơ sở sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW, ngày 10/6/2021, Ban Bí thư ban hành Kết luận số 06-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW.
Để cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp tổ chức thực hiện Chỉ thị 40-CT/TW và Kết luận 06-KL/TW của Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 401/QĐ-TTg ngày 14/3/2016 và Quyết định số 1630/QĐ-TTg ngày 28/9/2021 về Kế hoạch triển khai Chỉ thị số 40-CT/TW và Kết luận 06-CT/TW.
10 năm, cho vay tín dụng chính sách xã hội đạt hơn 733.000 tỷ đồng
Các báo cáo, ý kiến tại Hội nghị đánh giá, kết quả đạt được trong 10 năm qua đã khẳng định Chỉ thị số 40-CT/TW và Kết luận số 06-KL/TW là giải pháp đúng đắn, phù hợp, thiết thực, mang tính đột phá trong chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện tín dụng chính sách xã hội, góp phần thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách, các mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước đã đề ra về giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển nguồn ngân lực, bảo đảm an sinh xã hội và phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, củng cố thêm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Trong 10 năm qua, đã huy động tăng thêm 238.338 tỷ đồng (tăng gấp 2,8 lần so với trước khi thực hiện Chỉ thị), đưa tổng nguồn tín dụng chính sách xã hội đến nay đạt 373.010 tỷ đồng, với tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 10,8%. Đáng chú ý, 100% địa phương cấp tỉnh, cấp huyện trong cả nước đã quan tâm cân đối, bố trí ngân sách ủy thác qua Ngân hàng Chính sách xã hội để bổ sung nguồn vốn cho vay đến nay đạt 47.350 tỷ đồng, tăng 43.542 tỷ đồng (gấp 12,4 lần) so với trước khi thực hiện Chỉ thị.
Nhiều chính sách đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành như: Chính sách cho vay hộ mới thoát nghèo; cho vay ưu đãi để mua, thuê mua nhà ở xã hội; cho vay phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; cho vay người chấp hành xong án phạt tù; chính sách cho vay trả lương hỗ trợ doanh nghiệp, người lao động gặp khó khăn do đại dịch…
Ngân hàng Chính sách xã hội đã phối hợp chặt chẽ với chính quyền các địa phương, các tổ chức chính trị-xã hội triển khai nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả các chương trình tín dụng với quy mô không ngừng tăng lên.
Tổng dư nợ các chương trình tín dụng đến nay đạt 350.822 tỷ đồng, tăng 221.365 tỷ đồng (tăng gần 171%) so với cuối năm 2014, với hơn 6,8 triệu hộ nghèo và các đối tượng chính sách đang còn dư nợ, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 10,5%.
Nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội đã tiếp tục được triển khai rộng rãi đến 100% xã, phường, thị trấn trong cả nước; giúp trên 21 triệu lượt hộ nghèo và đối tượng chính sách khác được vay vốn với doanh số cho vay đạt 733.152 tỷ đồng, trong đó, đã tập trung ưu tiên cho vay vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn...
Nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng thực hiện thành công mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, giảm nghèo từ 14,2%, năm 2011 xuống 2,93% cuối năm 2023 (theo chuẩn nghèo đa chiều).
Mục tiêu bảo toàn, phát triển vốn cho Nhà nước được bảo đảm, chất lượng tín dụng chính sách xã hội được nâng cao. Tỉ lệ nợ quá hạn và nợ khoanh giảm từ 0,93%/tổng dư nợ (khi bắt đầu thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW) xuống còn 0,56%/tổng dư nợ, trong đó nợ quá hạn chiếm 0,22%/tổng dư nợ (thời điểm 31/7/2024).
Trụ cột trong hệ thống chính sách an sinh xã hội
Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình xây dựng đất nước là phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, mọi người dân đều được thụ hưởng trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội; không "hy sinh" tiến bộ, công bằng xã hội, an sinh xã hội và môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần; với tinh thần "tất cả cùng phát triển", "không ai bị bỏ lại phía sau", cùng chia sẻ, cùng làm, cùng hưởng, cùng thắng và cùng phát triển.
Việc kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, hạn chế phân hóa giàu nghèo, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển bền vững đất nước.
"Với những kết quả đạt được sau hơn một thập kỷ cả hệ thống chính trị chung tay vào cuộc, tín dụng chính sách xã hội đã trở thành một "điểm sáng" và là một "trụ cột" trong hệ thống các chính sách giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, đặc biệt là người nghèo và đối tượng yếu thế trong xã hội", Thủ tướng nhấn mạnh.
Bên cạnh những kết quả đạt được như trên, Thủ tướng chỉ rõ, việc thực hiện Chỉ thị 40, Kết luận 06 của Ban Bí thư còn một số tồn tại, hạn chế, như cơ cấu nguồn vốn chưa thực sự hợp lý và đảm bảo tính bền vững; nguồn vốn ủy thác tại một số tỉnh còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh phát triển kinh tế-xã hội tại địa phương; một số chính sách tín dụng mặc dù có điều chỉnh nâng mức cho vay nhưng việc triển khai còn chậm (chương trình tín dụng cấp nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn, cho vay đối với vùng khó khăn...).
Tăng cường nguồn lực thực hiện mở rộng đối tượng, nâng mức cho vay các chương trình tín dụng
Theo Thủ tướng, thời gian tới, tình hình quốc tế, khu vực còn tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Ở trong nước, chúng ta đang đối mặt với không ít khó khăn, thách thức đối với phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm phúc lợi xã hội và đời sống của nhân dân, đặc biệt là người nghèo và các đối tượng chính sách.
Vì vậy, cần tiếp tục xác định tín dụng chính sách xã hội là giải pháp quan trọng nhằm thực hiện các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện công bằng, tiến bộ xã hội, thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, cũng như phát triển kinh tế-xã hội của đất nước nhanh, bền vững.
Nêu rõ 6 định hướng lớn trong thời gian tới, Thủ tướng yêu cầu cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, thực hiện hiệu quả hơn nữa các chủ trương, quan điểm của Đảng về chính sách xã hội (Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn mới) và về tín dụng chính sách xã hội (Chỉ thị 40-CT/TW và Kết luận 06-KL/TW của Ban Bí thư), Chiến lược phát triển Ngân hàng Chính sách xã hội đến năm 2030 theo Quyết định của của Thủ tướng Chính phủ.
Thực tiễn đã chứng minh mô hình tổ chức, phương thức quản lý tín dụng mà Ngân hàng Chính sách xã hội triển khai trong hơn 20 năm qua là phù hợp với tình hình thực tế, điều kiện trong từng giai đoạn của Việt Nam.
Vì vậy, cần sớm hoàn thiện nghị định về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội; thực hiện hiệu quả công tác điều hành; nâng cao chất lượng hoạt động ủy thác/ủy nhiệm giữa Ngân hàng Chính sách xã hội và các tổ chức chính trị-xã hội, ban quản lý tổ tiết kiệm và vay vốn; nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn tại các điểm giao dịch xã.
Đồng thời, tăng cường vai trò, trách nhiệm của chủ tịch UBND cấp xã trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với tín dụng chính sách xã hội tại cơ sở.
Các bộ, ngành Trung ương tiếp tục rà soát, hoàn thiện các quy định, nhằm tập trung nguồn lực, cải thiện cơ cấu nguồn vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội theo hướng ổn định, bền vững; chủ động báo cáo, tham mưu Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cân đối, cấp đủ vốn điều lệ, cấp bù lãi suất, phí quản lý và vốn thực hiện chính sách tín dụng mới được ban hành, đảm bảo nguồn vốn hoạt động được bố trí trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm cho Ngân hàng Chính sách xã hội.
Nghiên cứu kỹ, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, cho phép tăng hạn mức phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh; tạo điều kiện để Ngân hàng Chính sách xã hội được tiếp nhận nguồn vốn ODA và mở rộng các hình thức huy động vốn… nhằm tăng cường nguồn lực để thực hiện mục tiêu mở rộng đối tượng, nâng mức cho vay các chương trình tín dụng, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội và thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia trong giai đoạn tới.
Hoàn thiện, khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách các quy định liên quan tới tổ chức, hoạt động tín dụng chính sách xã hội của Ngân hàng Chính sách xã hội. Nghiên cứu, bổ sung chính sách hỗ trợ tín dụng phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh đối với hộ có mức sống trung bình làm nông, lâm, ngư, diêm nghiệp. Bên cạnh đó, cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách về tín dụng, tài chính, lao động, tiền lương... nhằm tạo điều kiện cho Ngân hàng Chính sách xã hội phát triển thành tổ chức có khả năng tự chủ, phát triển ổn định, lâu dài, bền vững, đủ năng lực để thực hiện ngày một hiệu quả hơn tín dụng chính sách xã hội.
Các địa phương cần tiếp tục quan tâm, cân đối, ưu tiên bố trí ngân sách địa phương ủy thác sang Ngân hàng Chính sách xã hội, nhất là nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm, nguồn vốn cho vay nhà ở xã hội… Đặc biệt, với tinh thần "Trung ương và địa phương cùng làm", cần quán triệt và tổ chức thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 24/5/2024 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát triển nhà ở xã hội trong tình hình mới.
Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, xây dựng gói 30.000 tỷ đồng (cho vay mua, thuê, thuê mua, xây dựng hoặc cải tạo sửa chữa nhà ở để thực hiện chính sách xã hội) giao cho Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện, trong đó 15.000 tỷ từ nguồn phát hành trái phiếu Chính phủ và 15.000 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác.
Ngân hàng Chính sách xã hội tập trung ưu tiên nguồn vốn cho đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Đồng thời, làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, nâng cao năng lực dự báo, phân tích; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, hiện đại hóa ngân hàng; nâng cao năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp; xây dựng đội ngũ cán bộ có uy tín, phong cách làm việc tiên tiến, hiện đại, tận tâm, tận tụy phục vụ người dân.
Thủ tướng đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức chính trị-xã hội tiếp tục thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giám sát, phản biện xã hội đối với việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội cũng như đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội.
Với phương châm hành động "thấu hiểu lòng dân, tận tâm phục vụ, nâng cao hiệu quả", Thủ tướng tin tưởng rằng Ngân hàng Chính sách xã hội sẽ phát huy truyền thống, kết quả đạt được, kinh nghiệm trong triển khai thực hiện, khắc phục những hạn chế, tồn tại, nỗ lực hơn nữa, thực hiện tốt hơn nữa những nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, khẳng định được sứ mệnh và trách nhiệm xã hội to lớn của mình.
Trong đó, mở rộng quy mô tín dụng, nâng cao quy mô cho vay, tăng cường đối tượng cho vay, nhất là đối tượng là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, người yếu thế, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, bị ảnh hưởng bởi thiên tai; tạo công ăn việc làm, tạo sinh kế, tạo điều kiện cho những người yếu thế phát huy sức mạnh nội sinh, tự tin, tự lực, tự cường, vượt lên khó khăn, thách thức, nghịch cảnh, thoát nghèo, tiến tới làm giàu, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, tiến bộ; góp phần thực hiện hiệu quả chính sách an sinh xã hội rất nhân văn, bao trùm, tổng thể, toàn diện của Đảng, Nhà nước ta.