Tìm biện pháp lấp 'lỗ hổng' pháp lý để đồng bộ trong xử lý nợ xấu
Theo các chuyên gia, dù theo hướng sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng hay ban hành một đạo luật riêng thì mục tiêu vẫn là tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ, bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên liên quan.

Tiến sĩ Lê Duy Bình - Giám đốc Economica Việt Nam phát biểu tại tọa đàm "Tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ về xử lý nợ xấu". (Ảnh: Vietnam+)
Phát biểu tại tọa đàm “Tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ về xử lý nợ xấu” do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức ngày 21/4, tại Hà Nội, Tiến sĩ Lê Duy Bình - Giám đốc Economica Việt Nam nhấn mạnh, việc hoàn thiện hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu không chỉ là yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn, mà còn là điều kiện tiên quyết để giải phóng nguồn lực lớn đang bị "giam giữ" trong hệ thống ngân hàng.
Tâm lý chây ỳ có xu hướng trỗi dậy
Phát biểu khai mạc tọa đàm, Phó Tổng Biên tập Báo Đại biểu Nhân dân Lê Thanh Kim nhấn mạnh Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng được Quốc hội ban hành năm 2017 trong bối cảnh đặc biệt. Thời điểm đó, tỷ lệ nợ xấu chưa xử lý và nợ tiềm ẩn nguy cơ thành nợ xấu lên đến 10% tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng. Khung pháp lý thiếu đồng bộ, nhiều khoảng trống và hiệu quả thấp, gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng trong xử lý nợ.
“Sau hơn 6 năm triển khai, Nghị quyết 42 đã cho thấy vai trò quan trọng trong việc tạo lập cơ chế pháp lý đặc thù, góp phần đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu. Quan trọng hơn, Nghị quyết 42 đã góp phần bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, ổn định kinh tế vĩ mô và đưa các tài sản 'bất động' trở lại phục vụ nền kinh tế,” ông Lê Thanh Kim khẳng định.
Tuy nhiên, Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng chính thức hết hiệu lực kể từ ngày 1/1/2024. Trong khi đó, một số quy định cốt lõi chưa được luật hóa trong Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2024. Theo phản ánh của các tổ chức tín dụng, khoảng trống pháp lý này đang gây nhiều trở ngại trong xử lý nợ xấu, làm gián đoạn dòng chảy tín dụng và ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn của người dân, doanh nghiệp.
Ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng cũng chia sẻ, đến cuối tháng 12/2024, tổng nợ xấu của các tổ chức tín dụng là khoảng 1,030 triệu tỷ đồng. Đáng lo ngại, trong hai tháng đầu năm 2025, nợ xấu tăng rất nhanh, tăng thêm khoảng 34.000 tỷ đồng nữa, nâng tổng nợ xấu lên mức khoảng 1,064 triệu tỷ đồng. Trong khi đó, tốc độ xử lý nợ xấu chỉ đạt khoảng 15.000 tỷ đồng do các tổ chức tín dụng trích dự phòng rủi ro để xử lý.
Khi đã có nợ xấu phát sinh nghĩa là ý thức thực hiện nghĩa vụ trả nợ của người đi vay này kém. Họ tìm đủ mọi cách để cách để trì hoãn trả nợ, không bàn giao tài sản, tạo ra những những tranh chấp giả để khởi kiện ra tòa, kéo theo việc các ngân hàng khó xử lý được tài sản đảm bảo.
"Chúng ta đều có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc bảo vệ cho cái sai. Người vay có nghĩa vụ trả nợ đúng cam kết, thay vì vay xong rồi cố tình chây ỳ, trốn tránh trách nhiệm, chỉ trả gốc mà không trả lãi, hoặc thậm chí tham gia các hội nhóm kêu gọi bùng nợ," ông Nguyễn Quốc Hùng chia sẻ.

Các đại biểu cho biết từ khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực, tâm lý chây ỳ, không chịu trả nợ có xu hướng trỗi dậy trở lại. (Ảnh: Vietnam+)
Đồng quan điểm, Tiến sĩ Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam cũng cho rằng, khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực, tiến trình xử lý nợ xấu và thu hồi tài sản bảo đảm đang đối mặt với nhiều rào cản pháp lý. Cùng với đó là tâm lý chây ỳ, không chịu trả nợ có xu hướng trỗi dậy trở lại. Điều này không chỉ gây rủi ro cho ngân hàng mà còn làm xấu đi văn hóa kinh doanh, gây ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa tổ chức tín dụng với doanh nghiệp và người gửi tiền.
“Các doanh nghiệp cần nhận thức rõ rằng khi vay vốn là đang sử dụng tiền của người gửi tiết kiệm, chứ không phải tiền của ông chủ ngân hàng, doanh nghiệp phải có trách nhiệm trả nợ đúng hạn,” ông Bình nhấn mạnh.
Hoàn thiện pháp lý xử lý nợ xấu
Tiến sĩ Lê Duy Bình cho rằng việc hoàn thiện hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu không chỉ là yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn, mà còn là điều kiện tiên quyết để giải phóng nguồn lực lớn đang bị "giam giữ" trong hệ thống ngân hàng.
Ông Bình dẫn chứng, với tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế hiện khoảng 4 triệu tỷ đồng, nếu tỷ lệ nợ xấu vào khoảng 6%-7% thì con số tuyệt đối lên tới hơn 1 triệu tỷ đồng - tương đương gần 40 tỷ USD. Đây là nguồn vốn không được sử dụng hiệu quả, trở thành vốn "chết."
Đáng nói hơn, theo ông Bình, tác hại không chỉ dừng lại ở con số khổng lồ đó. Không chỉ nguồn vốn bị "đóng băng," mà những tài sản thế chấp đi kèm cũng không được khai thác do vướng mắc pháp lý. Tức là đang chịu tác động kép, vừa mất đi nguồn tín dụng, vừa để tài sản "chết."

Các đại biểu tham dự tại tọa đàm. (Ảnh: Vietnam+)
Ông Bình cho rằng tỷ lệ nợ xấu 6% là con số rất cao nếu so với mức trung bình 2 - 3% của các nền kinh tế đang phát triển. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng tài sản (AQ) của hệ thống ngân hàng và tạo áp lực lớn trong việc trích lập dự phòng rủi ro - yếu tố đẩy lãi suất cho vay tăng cao.
Từ góc độ pháp lý, ông Bình cho rằng ở nhiều quốc gia, quyền thu giữ tài sản thế chấp là quyền đương nhiên, được pháp luật bảo vệ. Việc giao kết hợp đồng tín dụng đã bao hàm sự đồng thuận dân sự và nếu bên vay vi phạm, quyền thu giữ sẽ được thi hành nhanh chóng thông qua hệ thống tư pháp hiệu quả. Tuy nhiên, ở Việt Nam, điều này vẫn chưa được thể chế hóa đầy đủ.
Do đó, cần luật hóa rõ ràng quyền thu giữ tài sản để bảo vệ lợi ích hợp pháp của ngân hàng, cổ đông, người gửi tiền - những người thực chất đang góp vốn cho nền kinh tế thông qua hệ thống tín dụng. Việc các thủ tục như kê biên, thu giữ tài sản, quy trình xử lý rút gọn cần được quy định cụ thể, có giá trị pháp lý đủ mạnh để tránh tình trạng thỏa thuận mang tính hình thức.
Ở phía ngân hàng thương mại, bà Nguyễn Thị Phương, Giám đốc ban pháp chế BIDV đề nghị ban soạn thảo xem xét bổ sung một số trường hợp được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Cụ thể, tổ chức tín dụng được chuyển giao bắt buộc được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc trong trường hợp các bên đã thực hiện mua bán nợ. Tổ chức có chức năng mua bán, xử lý nợ theo quy định của pháp luật (không bao gồm tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ có chức năng mua, bán, xử lý nợ) được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng bán nợ...
Dưới góc nhìn vĩ mô, bà Trần Hồng Nguyên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội khẳng định, mục tiêu cuối cùng của xử lý nợ xấu không phải vì lợi ích của ngân hàng mà là trách nhiệm bảo đảm quyền và lợi ích các bên, trong đó có bên thứ ba là người gửi tiền.
Ông Lê Duy Bình cũng khẳng định, dù theo hướng sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng hay ban hành một đạo luật riêng thì mục tiêu cuối cùng vẫn là tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ, rõ ràng, hiệu quả, bảo vệ lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên quan. Bởi điều này, không chỉ phục vụ mục tiêu xử lý nợ xấu trước mắt mà còn thiết lập một trật tự kỷ cương bền vững trong quan hệ tín dụng - yếu tố sống còn của nền kinh tế hiện đại./.