Tiếp tục đơn giản hóa thủ tục thành lập doanh nghiệp
Một trong những mục tiêu sửa đổi Luật Doanh nghiệp lần này là hoàn thiện khung khổ pháp luật về thành lập, đăng ký doanh nghiệp để tạo điều kiện hơn nữa cho doanh nghiệp gia nhập thị trường, bảo đảm quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.
Nhiều vướng mắc, bất cập
Dù thời gian qua, chúng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để tạo điều kiện cho doanh nghiệp, nhưng trên thực tế việc gia nhập thị trường, thành lập doanh nghiệp còn có những khó khăn, bất cập. Trong đó, do một số quy định tại Luật Doanh nghiệp chưa rõ ràng, một số quy định không còn phù hợp với bối cảnh phát triển mới.

Ảnh minh họa. Nguồn: ITN
Một trong những vướng mắc đó là quy định về hồ sơ đăng ký doanh nghiệp. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, một trong những thành phần hồ sơ quan trọng là thông tin xác thực danh tính của người thành lập doanh nghiệp. Tuy vậy, các quy định của Luật Doanh nghiệp về xác thực thông tin của người thành lập doanh nghiệp cơ bản vẫn dựa trên các giấy tờ pháp lý truyền thống như: căn cước công dân, chứng minh thư nhân dân, hộ chiếu… chưa cập nhật các công cụ mới trong bối cảnh chuyển đổi số ngày càng tác động sâu rộng đến hoạt động của cơ quan nhà nước, người dân, doanh nghiệp.
Liên quan đến thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp quy định: “Doanh nghiệp phải thông báo với Cơ quan đăng ký kinh doanh khi thay đổi một trong những nội dung sau đây: ngành, nghề kinh doanh; cổ đông sáng lập và cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài đối với công ty cổ phần, trừ trường hợp đối với công ty niêm yết; nội dung khác trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp”. Tuy vậy, trên thực tế cả doanh nghiệp và cơ quan đăng ký kinh doanh đều lúng túng trong việc xác định “nội dung khác trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp” cần phải thông báo khi có thay đổi. Đơn cử, điều lệ công ty là một thành phần hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, nhưng có cách hiểu chưa thống nhất về sự cần thiết phải thông báo cơ quan đăng ký kinh doanh khi có sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty.
Hay về đăng ký thay đổi nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, khoản 2, Điều 30 Luật Doanh nghiệp quy định, doanh nghiệp chịu trách nhiệm đăng ký thay đổi nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày có thay đổi. Quy định này lại chưa rõ về thời điểm có hiệu lực của những thay đổi trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Ví dụ, ngày thay đổi người đại diện theo pháp luật được tính là ngày doanh nghiệp quyết định/quyết nghị thay đổi người đại diện theo pháp luật hay là ngày cơ quan đăng ký kinh doanh cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp? Nếu tính theo ngày cấp lại Chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì có thể đảm bảo công khai thông tin và bảo vệ quyền lợi của bên thứ ba, nhưng dẫn tới tình trạng doanh nghiệp không có người đại diện theo pháp luật trong giai đoạn trước khi được cơ quan đăng ký kinh doanh cấp lại chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy, có nhiều nguy cơ dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật từ các doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đăng ký kinh doanh, không thông báo cho các cơ quan quản lý nhà nước, không hoạt động kinh doanh sau khi thành lập như: không kê khai nộp thuế hoặc chỉ nộp thuế môn bài; không có hoạt động thu/chi bình thường của một doanh nghiệp như nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, chi trả lương, bảo hiểm xã hội, không phát hành, sử dụng hóa đơn đã đăng ký… Thậm chí, có hiện tượng lợi dụng thành lập doanh nghiệp và hình thành pháp nhân để vi phạm pháp luật... Tuy vậy, cơ quan chức năng khó khăn trong việc xử lý như: thu hồi giấy phép, yêu cầu giải thể... đối với các pháp nhân này do Luật Doanh nghiệp và pháp luật liên quan chưa có quy định cụ thể, thống nhất.
Về thời hạn góp vốn, Luật Doanh nghiệp không quy định thời hạn tối đa hoàn thành góp vốn bằng các tài sản như máy móc thiết bị, công nghệ, quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất… dẫn tới quá trình góp vốn kéo dài, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước cũng như hoạt động của doanh nghiệp.
Ngăn chặn thành lập doanh nghiệp “ma”
Sửa đổi Luật Doanh nghiệp lần này nhằm tiếp tục đơn giản hóa thủ tục thành lập doanh nghiệp gắn với quá trình chuyển đổi số, phát triển chính phủ điện tử, cắt giảm thành phần hồ sơ, giảm tải số lượng thông tin kê khai, hạn chế tình trạng giả mạo thông tin thành lập doanh nghiệp.
Theo đó, dự thảo Luật được sửa đổi theo hướng, hợp nhất tài khoản định danh của cá nhân (VNeID) với tài khoản đăng ký kinh doanh để bảo đảm việc người dân có thể sử dụng tài khoản định danh cá nhân để ký số và nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh. Bổ sung quy định về việc người ủy quyền thực hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp có nghĩa vụ thực hiện xác thực điện tử với cơ quan đăng ký kinh doanh để xác nhận việc ủy quyền thực hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp. Bổ sung quy định việc công khai thông tin về hoạt động của doanh nghiệp. Cụ thể, doanh nghiệp phải công khai trực tuyến thông tin tình trạng hoạt động trên Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp định kỳ vào ngày cuối cùng quý II, quý IV hàng năm.
Cùng với đó, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định rõ hơn việc kết nối, chia sẻ thông tin của cơ quan chủ quản Cơ sở dữ liệu quốc gia và Cơ sở dữ liệu chuyên ngành với Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Trong đó, có thông tin về giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, giấy chứng nhận hoặc văn bản chấp thuận về điều kiện kinh doanh, thông tin về thuế, hóa đơn, báo cáo tài chính của doanh nghiệp, hải quan…
Ngoài ra, để nâng cao trách nhiệm của UBND tỉnh, cũng như sớm phát hiện ngăn chặn tình trạng doanh nghiệp “ma”, dự thảo Luật bổ sung quy định: UBND tỉnh tổ chức đăng ký kinh doanh; thanh tra, kiểm tra, giám sát doanh nghiệp trong phạm vi địa phương. Ban hành quy trình kiểm tra, giám sát đăng ký kinh doanh; quy chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương trong thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng ký thành lập.
Với những sửa đổi, bổ sung một số quy định như dự thảo Luật nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi để thành lập doanh nghiệp, nhưng vẫn bảo đảm được việc kiểm soát chặt chẽ tình trạng lợi dụng thành lập doanh nghiệp để vi phạm pháp luật, trục lợi.