Tiềm ẩn 'hiệu ứng domino' từ cơ chế CBAM tác động đến doanh nghiệp xi măng Việt Nam

Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của Liên minh châu Âu (EU) không chỉ là một rào cản thương mại mới, mà còn là hồi chuông cảnh tỉnh cho ngành xi măng Việt Nam. Đây là bài toán khó nhưng đồng thời mở ra cơ hội lớn để tái cấu trúc ngành theo hướng xanh hóa và bền vững, khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế.

CBAM sẽ trực tiếp làm tăng chi phí cho mỗi tấn xi măng xuất khẩu vào EU

Cơ chế CBAM đang trở thành một yếu tố quan trọng trong thương mại quốc tế. Về bản chất, CBAM được thiết kế như một công cụ nhằm hạn chế phát thải khí nhà kính, đồng thời đảm bảo công bằng thương mại giữa các sản phẩm được sản xuất trong và ngoài EU. Cụ thể hơn, các hàng hóa nhập khẩu vào EU, bao gồm xi măng, sẽ phải chịu thêm một khoản chi phí carbon tương đương với mức phát thải CO₂ phát sinh trong quá trình sản xuất.

Trong bối cảnh đó, ngành xi măng, với đặc thù là một trong những ngành công nghiệp có mức độ phát thải cao nhất thế giới, đang đứng trước những thách thức không nhỏ. Đặc biệt, những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, nơi mà công nghệ sản xuất còn hạn chế và phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch, sẽ chịu ảnh hưởng đáng kể.

 Ngành xi măng Việt Nam đang đứng trước các nguy cơ từCBAM. Ảnh:Hiệp hội Xi măng Việt Nam.

Ngành xi măng Việt Nam đang đứng trước các nguy cơ từCBAM. Ảnh:Hiệp hội Xi măng Việt Nam.

Trao đổi với PV, ông Lương Đức Long, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Xi măng Việt Nam, cho rằng CBAM vẫn là vấn đề đáng quan tâm bởi nếu EU đưa ra hạn mức phát thải thấp hơn so với thực tế các nhà sản xuất xi măng Việt Nam đang thực hiện thì phải đóng thuế.

“Khả năng cao EU sẽ đưa ra ngưỡng thấp hơn so với thực tế các doanh nghiệp Việt Nam đang phát thải ra môi trường bởi họ là những nước sản xuất có trình độ phát triển cao hơn”, ông nói.

Theo số liệu từ ximang.vn, dù tỷ trọng xuất khẩu xi măng Việt Nam sang EU hiện tại còn khiêm tốn (khoảng 1-2% tổng kim ngạch xuất khẩu), CBAM vẫn tiềm ẩn những tác động gián tiếp nhưng sâu rộng. Trên thực tế, nó có thể tạo ra hiệu ứng domino, thúc đẩy các thị trường khác áp dụng chính sách tương tự trong tương lai.

 Ảnh: ximang.vn.

Ảnh: ximang.vn.

Hiệp hội Xi măng Việt Nam đánh giá, CBAM sẽ trực tiếp làm tăng chi phí cho mỗi tấn xi măng xuất khẩu vào EU. Với mức phát thải trung bình khoảng 725 - 750 kg CO₂/tấn xi măng và giá carbon EU dao động từ 80 - 100 EUR/tấn CO2, mỗi tấn xi măng Việt Nam sẽ phải chịu thêm 50 - 70 EUR (tương đương 1,4-1,9 triệu đồng) chi phí carbon. Mức chi phí này sẽ tăng dần theo lộ trình của EU, từ 2,5% lượng phát thải vào năm 2026 lên tới 48,5% vào năm 2030 và có thể là 100% vào 2034.

Dự báo đến năm 2030, chi phí CBAM cho mỗi tấn xi măng Việt Nam có thể lên tới 25 - 30 EUR, tương đương 600.000 - 700.000 đồng/tấn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức cạnh tranh và lợi nhuận của doanh nghiệp. Do đó, tổng chi phí CBAM cho ngành Xi măng Việt Nam khi xuất khẩu vào EU có thể đạt từ 300 - 400 tỷ đồng/năm, trong trường hợp duy trì mức xuất khẩu như hiện nay.

Không chỉ giới hạn ở EU, nhiều quốc gia khác như Canada, Anh, Nhật Bản cũng đang xem xét áp dụng cơ chế tương tự. Điều này cho thấy rằng, nếu xu hướng này trở nên phổ biến, các doanh nghiệp xi măng Việt Nam sẽ phải đối mặt với những rào cản tương tự ở các thị trường lớn khác, khiến việc né tránh CBAM bằng cách chuyển hướng thị trường trở nên kém khả thi.

Ngành xi măng và những nỗ lực giảm phát thải

Hiện nay, mỗi tấn xi măng tại Việt Nam phát thải trung bình khoảng 725 - 750 kg CO2, cao hơn mức bình quân toàn cầu (630 kg CO2/tấn). Nguyên nhân chủ yếu là do phụ thuộc vào than đá, tỷ lệ clinker cao và ít sử dụng phụ gia khoáng.

Những năm gần đây, ngành sản xuất xi măng Việt Nam cũng đang có lộ trình giảm phát thải. Theo chiến lược phát triển ngành xây dựng mà Thủ tướng đã xây dựng, ngành xi măng phấn đấu giảm phát thải xuống 650 kg CO2 vào năm 2030 và 550 kg vào năm 2050 trên một tấn xi măng.

Trong tương lai, ngành xi măng Việt Nam được kỳ vọng có thể tiếp cận đến những giới hạn mà thế giới quy định.

Tổng thư ký Hiệp hội Xi măng Việt Nam cho biết, sau năm 2015, bức tranh ngành xi măng bắt đầu thay đổi khi công nghệ lò đứng, vốn đã lạc hậu, phát thải nhiều và sử dụng rộng rãi những năm 2000, đã biến mất. Tất cả nhà máy sử dụng công nghệ lò quay - mô hình tiên tiến nhất hiện nay, giảm thiểu phát thải. Một số nhà máy sử dụng trí tuệ nhân tạo trong sản xuất. Các nhà máy đang ở trình độ ngang bằng thế giới.

Hiện nay hầu hết nhà máy xi măng sử dụng nhiên liệu hóa thạch chủ yếu than, dầu. Tuy nhiên, xu thế là sử dụng nhiên liệu thay thế, trong đó bao gồm kết hợp xử lý rác thải công nghiệp và sinh hoạt. Thực tế đã có khoảng 15 nhà máy sử dụng nhiên liệu thay thế ở mức độ khác nhau.

Theo đơn vị này, để duy trì khả năng xuất khẩu vào EU và các thị trường tiềm năng, doanh nghiệp xi măng Việt Nam cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Trong đó, cần đặc biệt đầu tư vào công nghệ giảm phát thải, nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ tiên tiến để giảm lượng khí thải CO₂ trong quá trình sản xuất.

Đồng thời xây dựng hệ thống đo lường, báo cáo và kiểm chứng phát thải (MRV) theo chuẩn quốc tế, đảm bảo tính minh bạch và độ tin cậy của dữ liệu phát thải; Chuyển đổi cơ cấu sản phẩm, ưu tiên phát triển các loại xi măng xanh, xi măng sử dụng phụ gia thay thế clinker: Giảm sự phụ thuộc vào clinker - nguyên liệu chính gây phát thải CO₂.

Doanh nghiệp cần chủ động tham gia thị trường carbon nội địa để chuẩn bị cho cơ chế giảm phát thải bắt buộc trong tương lai. Đặc biệt là việc đầu tư vào các giải pháp công nghệ xanh.

Hiệp hội Xi măng Việt Nam cho rằng, dù các giải pháp công nghệ xanh đòi hỏi đầu tư ban đầu lớn (hệ thống WHR có thể lên tới 15 - 20 triệu USD/nhà máy), nhưng mang lại lợi ích bền vững như: Giảm chi phí năng lượng nhờ tận dụng nhiệt thải, giảm chi phí carbon khi xuất khẩu, nâng cao hình ảnh doanh nghiệp trong mắt khách hàng quốc tế và có thể giúp doanh nghiệp tiếp cận các nguồn tài chính xanh từ các quỹ quốc tế như Quỹ khí hậu xanh, JETP.

Trang Mai

Nguồn Doanh Nhân VN: https://doanhnhanvn.vn/tiem-an-hieu-ung-domino-tu-co-che-cbam-tac-dong-den-doanh-nghiep-xi-mang-viet-nam.html
Zalo