Thực trạng thực thi pháp luật về an toàn lao động trong xây dựng: Vấn đề và giải pháp

Tình trạng thực thi pháp luật về an toàn lao động trong ngành Xây dựng đang trở thành vấn đề nhức nhối khi hàng loạt vụ tai nạn lao động xảy ra mỗi năm, gây thiệt hại nghiêm trọng về tính mạng và tài sản. Những lỗ hổng trong kiểm tra, giám sát, cùng ý thức hạn chế của một số bên liên quan, đã làm tăng thêm mức độ rủi ro. Trước thực trạng này, việc tìm ra giải pháp để cải thiện hiệu quả thực thi pháp luật không chỉ là yêu cầu cấp thiết mà còn là trách nhiệm chung của toàn xã hội.

Dù khung pháp luật đã được thiết lập tương đối đầy đủ, việc thực thi trên thực tế vẫn gặp nhiều hạn chế.

Dù khung pháp luật đã được thiết lập tương đối đầy đủ, việc thực thi trên thực tế vẫn gặp nhiều hạn chế.

Theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ) năm 2024, toàn quốc đã xảy ra 8.286 vụ tai nạn lao động (TNLĐ), làm 8.472 người bị nạn. Trong đó, số vụ TNLĐ chết người là 675 vụ, số người chết vì TNLĐ là 727 vụ, số người bị thương nặng là 1.690 người.

Báo cáo ghi nhận tình hình TNLĐ năm 2024 trong khu vực có quan hệ lao động tăng về số người chết và số vụ TNLĐ chết người; khu vực người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động giảm về số người chết và số vụ TNLĐ chết người so với năm 2024.

Những lĩnh vực sản xuất kinh doanh xảy ra nhiều TNLĐ chết người gồm có: Khai thác mỏ và khai thác khoáng sản, xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí – luyện kim, dịch vụ... Các yếu tố chấn thương chủ yếu là chết người nhiều nhất là tai nạn giao thông, đổ sập, ngã từ trên cao, vật văng bắn, va đập và điện giật.

Dù khung pháp luật đã được thiết lập tương đối đầy đủ, việc thực thi trên thực tế vẫn gặp nhiều hạn chế, đặc biệt trong ngành Xây dựng, nơi áp lực tiến độ và chi phí thường làm lu mờ tầm quan trọng của an toàn lao động. Nhiều công trường vẫn bỏ qua việc cung cấp thiết bị bảo hộ đạt chuẩn hoặc tổ chức huấn luyện an toàn đúng quy trình.

Hệ quả là số lượng các vụ tai nạn lao động trong ngành Xây dựng vẫn ở mức cao, từ tai nạn sập giàn giáo, rơi ngã từ trên cao, cho đến những vấn đề liên quan đến sức khỏe do điều kiện làm việc không an toàn. Những hạn chế trong việc thanh tra, giám sát và xử phạt khiến luật pháp mất đi tính hiệu quả răn đe cần thiết. Sự mâu thuẫn giữa lý thuyết và thực tiễn đặt ra câu hỏi: Làm thế nào để khắc phục những bất cập này để bảo vệ tốt hơn người lao động trong ngành Xây dựng?

Trên thực tế, việc người lao động tại các công trường không đảm bảo an toàn vẫn hàng ngày diễn ra. Hình ảnh những người lao động làm việc trên giàn giáo cao mà không có mũ bảo hộ hay hay dây đai oan toàn đã trở nên quá quen thuộc, dù quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này đã được ban hành từ lâu.

Theo ghi nhận, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các nhà thầu nhỏ, vẫn đang coi thiết bị bảo hộ lao động như một khoản chi không cần thiết. Những công trình xây dựng thường chỉ trang bị các thiết bị cơ bản như mũ bảo hộ và găng tay, trong khi các thiết bị quan trọng hơn như dây đai an toàn hay giày chống trượt lại bị lược bớt. Một số công trường thậm chí chỉ có vài bộ dụng cụ bảo hộ để "đối phó" với các cuộc kiểm tra định kỳ, thay vì thực sự đảm bảo an toàn cho toàn bộ công nhân.

"Chúng tôi được phát mũ và găng tay, nhưng dây đai thì chỉ có vài bộ cho cả đội. Muốn có đủ thì phải tự mua, nhưng với mức lương hiện tại, điều này là rất khó", anh Nguyễn Văn H., một công nhân tại Hà Nội chia sẻ.

Trong khi đó, một số người lao động, dù được trang bị bảo hộ, lại không sử dụng vì lý do bất tiện. Họ thường cho rằng thiết bị bảo hộ làm cản trở quá trình làm việc, khiến công việc mất nhiều thời gian hơn. Tuy nhiên, sự chủ quan này lại đẩy họ vào tình trạng nguy hiểm mà họ có thể không ngờ tới. "Đôi khi, vì áp lực công việc, tôi không đeo dây đai an toàn hay đội mũ bảo hộ. Nhìn xung quanh không ai dùng, mình cũng làm theo thôi", anh H. thừa nhận.

Tương tự như việc đội mũ bảo hiểm đã được luật hóa và xử phạt nghiêm minh để nâng cao ý thức cộng đồng, nhiều ý kiến cho rằng cần có chế tài xử phạt nặng đối với hành vi không sử dụng bảo hộ lao động. Các chuyên gia nhận định, chỉ khi những hành vi này bị răn đe mạnh mẽ, người lao động mới ý thức rõ hơn về tầm quan trọng của việc bảo vệ bản thân, còn doanh nghiệp sẽ không thể xem nhẹ trách nhiệm.

An toàn lao động trong ngành Xây dựng từ lâu đã trở thành một vấn đề đáng báo động, khi hàng năm, số vụ tai nạn lao động vẫn diễn ra với con số không nhỏ. Trong khi ngành Xây dựng vẫn ngừng phát triển để đáp ứng nhu cầu đô thị hóa và công nghiệp hóa, thực trạng người lao động không được bảo vệ đầy đủ tiếp tục là một thách thức lớn. Giải pháp cho vấn đề này đòi hỏi sự chung tay của nhiều bên từ nhà nước, doanh nghiệp đến chính người lao động.

Để giảm thiểu TNLĐ trong bối cảnh ngành Xây dựng ngày một phát triển đầu tiên phải kể đến tăng cường công tác kiểm tra an toàn lao động tại các công trình xây dựng. Các cơ quan quản lý cần tổ chức các đợt kiểm tra định kỳ và bất ngờ, nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm. Mức xử phạt cũng cần được nâng lên đủ mạnh để răn đe các doanh nghiệp lơ là trong việc bảo vệ an toàn cho công nhân.

Bên cạnh đó, dù Luật An toàn, Vệ sinh lao động năm 2015 đã có những quy định rõ ràng, nhưng việc thực thi còn chưa hiệu quả. Các văn bản pháp luật cần được bổ sung, hoàn thiện để đảm bảo tính khả thi, đồng thời cần có cơ chế giám sát độc lập để việc thực thi không mang tính hình thức.

Cuối cùng, việc đào tạo và nâng cao nhận thức cho người lao động là giải pháp không thể thiếu. Các chương trình huấn luyện về an toàn lao động cần được tổ chức thường xuyên, giúp công nhân hiểu rõ nguy cơ và cách bảo vệ mình. Bên cạnh đó, việc xây dựng văn hóa an toàn lao động tại công trường sẽ góp phần thay đổi thói quen và nâng cao ý thức của cả người lao động lẫn quản lý.

Hưng Thịnh

Nguồn Xây Dựng: https://baoxaydung.com.vn/thuc-trang-thuc-thi-phap-luat-ve-an-toan-lao-dong-trong-xay-dung-van-de-va-giai-phap-396851.html
Zalo