Thúc đẩy chuyển đổi số trong đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị

Chuyển đổi số đem lại nhiều lợi ích cho xã hội, trong đó có đào tạo nhân lực nói chung: Hình thành và tiếp cận kho thông tin, kiến thức, kỹ năng đa dạng, phong phú của nhân loại trên toàn cầu. Đây là cơ sở dữ liệu lớn cho nghiên cứu và học tập của cá nhân, cơ quan nghiên cứu, đào tạo. Làm thay đổi cách dạy - học, phát huy vai trò trung tâm của người học, người dạy định hướng, dẫn dắt phương pháp luận, truyền cảm hứng.

Hội thảo khoa học quốc gia: Chuyển đổi số trong công tác tư tưởng, lý luận ở Việt Nam hiện nay do Học viện Báo chí và Tuyên truyền phối hợp Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật và Học viện Cảnh sát nhân dân tổ chức.Ảnh: nhandan.vn

Hội thảo khoa học quốc gia: Chuyển đổi số trong công tác tư tưởng, lý luận ở Việt Nam hiện nay do Học viện Báo chí và Tuyên truyền phối hợp Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật và Học viện Cảnh sát nhân dân tổ chức.Ảnh: nhandan.vn

1. Lợi ích chính của chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo

Chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo là xu thế tất yếu, là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện hoạt động lãnh đạo, quản lý, vận hành toàn bộ quy trình giáo dục, đào tạo; tác động tới cá nhân, tổ chức về cách quản trị, cách làm việc và phương thức tổ chức trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo.

Yêu cầu chuyển đổi số quy trình giáo dục, đào tạo là tất yếu hiện nay. Hình thành hệ thống cơ sở dữ liệu lớn để quản lý các quy trình giáo dục, đào tạo ở các cấp, trình độ. Số hóa từng quy trình, khâu nghiệp vụ, đầu vào - đầu ra. Áp dụng công nghệ kiểm tra, giám sát vào từng khâu của quy trình giáo dục, đào tạo nhằm bảo đảm khách quan, chặt chẽ và chất lượng. Nhờ hỗ trợ của công nghệ, hình thức giáo dục, đào tạo trở nên đa dạng, tiện ích hơn cho nhiều đối tượng có nhu cầu nâng cao kiến thức và kỹ năng như đào tạo từ xa, học trực tuyến, công nghệ giáo dục thông minh… Hệ thống giảng đường thông minh kết nối với các hệ thống học liệu, thông tin, thư viện mở.

Chuyển đổi số đem lại nhiều lợi ích cho xã hội, trong đó có đào tạo nhân lực nói chung: Hình thành và tiếp cận kho thông tin, kiến thức, kỹ năng đa dạng, phong phú của nhân loại trên toàn cầu. Đây là cơ sở dữ liệu lớn cho nghiên cứu và học tập của cá nhân, cơ quan nghiên cứu, đào tạo. Làm thay đổi cách dạy - học, phát huy vai trò trung tâm của người học, người dạy định hướng, dẫn dắt phương pháp luận, truyền cảm hứng. Coi trọng quá trình tự học và học tập suốt đời của người học. Chuyển đổi số tác động sâu rộng, bao trùm lên tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội, góp phần tăng năng suất lao động, chuyển đổi mô hình hoạt động, kinh doanh theo hướng đổi mới sáng tạo, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. Chuyển đổi số trong giáo dục sẽ đổi mới cách thức giảng - dạy truyền thống hướng tới phổ cập hóa và cá nhân hóa dịch vụ học tập suốt đời tới từng người học. Phát triển nhiều phương thức tổ chức học tập tiện lợi cho người học trong mọi không gian và thời gian khác nhau. Phát triển hình thức đào tạo từ xa, trực tuyến có khả năng kết nối người học từ nhiều quốc gia, địa phương khác nhau, tùy thuộc thời gian phù hợp. Quản lý giáo dục, đào tạo trở nên hiệu lực, hiệu quả, rõ ràng, minh bạch hơn. Các khâu của quá trình giáo dục, đào tạo được số hóa và kết nối liên thông hệ thống; việc đánh giá kết quả học tập môn học, chất lượng quá trình trở nên chặt chẽ, đồng bộ.

2. Vai trò lãnh đạo của Đảng và thể chế hóa của Nhà nước

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ cuộc cách mạng 4.0. Ngày 27-9-2019, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về “một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, theo đó khẳng định “chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng; đồng thời nhận thức đầy đủ, đúng đắn về nội hàm, bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để quyết tâm đổi mới tư duy và hành động, coi đó là giải pháp đột phá với bước đi và lộ trình phù hợp để Việt Nam bứt phá trong phát triển kinh tế - xã hội”. Nghị quyết số 52 xác định việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý phù hợp với thời đại số là rất cần thiết. Đây có thể được coi là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy, phát triển Chính phủ số.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và công nghệ số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số”. Đại hội cũng xác định mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2030, hoàn thành xây dựng chính phủ số; đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số”.

Nhân dịp kỷ niệm 79 năm Quốc khánh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2-9-1945 - 2-9-2024), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm có bài phát biểu “Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”, nhấn mạnh: Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - phương thức sản xuất số, trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số…

Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, Chính phủ ban hành nhiều văn bản đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp theo lộ trình, định hướng triển khai chuyển đổi số, xác định tầm nhìn tới năm 2030: Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp.

3. Mô hình chuyển đổi số trong đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị

Ý tưởng chuyển đổi số trong đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị (đào tạo sơ cấp, trung cấp, cao cấp; bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn xây dựng Đảng...) được khái quát như sau: Tất cả các khâu, giai đoạn được số hóa và tích hợp tổng thể thành hệ thống liên thông, việc quản trị toàn hệ thống trong môi trường số hóa.

Dựa trên nền tảng chuyển đổi số đồng bộ, việc tổ chức các hình thức học trực tuyến, kết hợp trực tuyến và trực tiếp, nhiều hình thức học trên nền tảng số trở nên phổ biến và hiệu quả hơn.

Lợi ích chính của chuyển đổi số trong đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị:

1. Xây dựng nội dung học tập lý luận chính trị, cơ sở dữ liệu lớn - số hóa, cập nhật đều đặn và đưa trên mạng in-tơ-nét (dạng chữ, âm thanh, băng hình…) để cán bộ, đảng viên và người có nhu cầu tiếp cận nghiên cứu, học tập, góp phần nâng cao nhận thức về Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, năng lực lãnh đạo, quản lý.

2. Tạo thuận lợi cho cán bộ, đảng viên học tập lý luận chính trị theo hình thức học từ xa, trực tuyến (thiết kế các mô hình phân định theo yêu cầu từng đối tượng học, đánh giá chất lượng...) mà không nhất thiết phải học tập trung tại cơ sở đào tạo. Cán bộ, đảng viên tham gia trên nền tảng số có thể học tập bất cứ ở đâu, khi nào, kết quả được đánh giá khách quan bằng công cụ số hóa trên mạng in-tơ-nét.

3. Tiết kiệm thời gian và kinh phí. Nhiều cán bộ, đảng viên có thể tham gia học tập từ xa, trực tuyến cùng lúc trên không gian mạng, tranh thủ học vào thời điểm ngoài thời gian làm việc hành chính. Tạo thuận lợi cho cán bộ, đảng viên học tập thường xuyên trên môi trường số. Tự học và học tập suốt đời là nhu cầu thiết thực, khả thi trong môi trường số.

4. Góp phần giảm tải cho các cơ sở đào tạo hiện nay khi có quá nhiều cán bộ, đảng viên đăng ký học tại trường lớp. Cơ sở đào tạo thiết kế các chương trình, mô-đun đáp ứng các mục tiêu học tập khác nhau theo hình thức từ xa, trực tuyến, kết hợp trực tuyến và trực tiếp. Quy định rõ đối tượng cán bộ, đảng viên tham gia các hình thức này.

4. Các giải pháp cơ bản triển khai mô hình chuyển đổi số

Thứ nhất, chuyển đổi nhận thức và cam kết chính trị về chuyển đổi số.

Cần khẳng định quan điểm: Chuyển đổi số trước hết cần phải chuyển đổi nhận thức, nhất là người đứng đầu. Một cơ quan, tổ chức có thể tiến hành chuyển đổi số ngay thông qua sử dụng nguồn lực, hệ thống kỹ thuật sẵn có để số hóa toàn bộ nguồn thông tin của mình, tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ, cơ cấu tổ chức và các mối quan hệ từ môi trường truyền thống sang môi trường số.

Chương trình chuyển đổi số quốc gia đã xác định giáo dục là một trong 8 lĩnh vực cần ưu tiên chuyển đổi số trước. Phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến. Phát triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể hóa. 100% các cơ sở giáo dục triển khai công tác dạy và học từ xa, trong đó thử nghiệm chương trình đào tạo cho phép học sinh, sinh viên học trực tuyến tối thiểu 20% nội dung chương trình. Ứng dụng công nghệ số để giao bài tập về nhà và kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh trước khi đến lớp học.

Sự tham gia của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, hành động đồng bộ ở các cấp là yếu tố bảo đảm sự thành công của chuyển đổi số. Các bộ, ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp phải coi chuyển đổi số quốc gia là một nhiệm vụ quan trọng trong chỉ đạo, điều hành và căn cứ tình hình cụ thể của từng bộ, ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp để quyết định xây dựng đề án, chương trình, chiến lược, kế hoạch lồng ghép nội dung về chuyển đổi số trong hoạt động của mình. Nội dung chuyển đổi số quốc gia phải được chỉ đạo, giám sát, đánh giá định kỳ hằng năm, giữa nhiệm kỳ, 5 năm.

Đối với đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, cần cam kết chính trị mạnh mẽ của các cấp, cơ quan liên quan. Xuất phát từ nhận thức đầy đủ lợi ích của chuyển đổi số, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, người đứng đầu lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng chiến lược, lộ trình, kế hoạch, phân bổ nguồn lực để chuyển đổi số kịp thời, đồng bộ. Cơ sở đào tạo lý luận chính gồm Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 4 học viện khu vực, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, các trường chính trị cấp tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng cấp huyện và một số cơ sở khác liên quan phải tiên phong trong chuyển đổi số bằng những hành động thiết thực.

Thứ hai, cụ thể hóa nội hàm phương thức sản xuất số.

Tổng Bí thư Tô Lâm nêu ra khái niệm phương thức sản xuất số: “Phương thức sản xuất số” gắn liền với bối cảnh phát triển của của cách mạng 4.0, chuyển đổi số mạnh mẽ trong toàn bộ xã hội”.

Đối với lĩnh vực giáo dục, đào tạo nói chung, lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa nguồn nhân lực làm công tác giáo dục, đào tạo (nòng cốt là giáo viên, giảng viên) với tư liệu sản xuất liên quan (hệ thống cơ sở vật chất, nền tảng kỹ thuật công nghệ phục vụ dạy và học). Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, “lực lượng sản xuất” trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo cần phải được ưu tiên phát triển, trong đó nguồn nhân lực cần được đào tạo, đào tạo lại để thích ứng với môi trường giảng dạy số hóa, cơ sở vật chất - kỹ thuật số hóa, đồng bộ như công cụ giảng dạy thông minh, kết nối mạng, giảng đường thông minh, cơ sở dữ liệu lớn về học liệu, thông tin, thư viện, quản trị số...

Đây cũng là sự đổi mới đồng bộ quan hệ sản xuất, bao gồm thể chế quản lý, tổ chức hình thức học tập, điều kiện và tiêu chuẩn chất lượng, đánh giá quá trình giáo dục, đào tạo, xác định tiêu chuẩn điều kiện đầu vào - đầu ra của quá trình giáo dục, đào tạo... Xây dựng các quy định cụ thể đối với các hình thức học tập trên môi trường số, bảo đảm chế độ, chính sách cho cán bộ, đảng viên tham gia học tập và chế độ, chính sách cho đội ngũ giảng viên làm việc trong môi trường số.

Thứ ba, xây dựng và phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật để phục vụ dạy và học trong môi trường số.

Phát triển hạ tầng số phục vụ đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu bùng nổ về kết nối và xử lý dữ liệu, các chức năng về giám sát mạng lưới đến từng nút mạng và bảo đảm an toàn, an ninh mạng được tích hợp sẵn ngay từ khi thiết kế, xây dựng. Phát triển nền tảng số thúc đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số diễn ra một cách tự nhiên, khai mở giá trị mới, mang lại lợi ích rõ ràng cho cán bộ, đảng viên.

Cần thiết xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu, chuyển đổi số ở tất cả các cơ sở đào tạo lý luận chính trị, bao gồm hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, chương trình, tư liệu - thư viện, đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên..., đồng thời, chuyển đổi số về công tác tổ chức quản lý quy trình, khâu đào tạo, bồi dưỡng. Thiết lập mạng liên kết toàn hệ thống dữ liệu về công tác đào tạo, bồi dưỡng từ Trung ương đến ban, bộ, ngành, địa phương. Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn để chia sẻ dữ liệu, quản lý mã định danh, xác định người dùng trên môi trường số kết nối, thực hiện số hóa các nguồn lực.

Thứ tư, phát triển đội ngũ giảng viên đủ khả năng làm việc trong môi trường số.

Xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên đủ năng lực làm việc trên môi trường số, bảo đảm yêu cầu về nhân lực chuyển đổi số. Theo đó, đưa ra quy định thống nhất về năng lực số cho người dạy, người học và người quản lý. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng từ xa, trực tuyến tạo ra sự minh bạch, tiện ích cho cán bộ, đảng viên.

Đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số. Khuyến khích các mô hình giáo dục, đào tạo mới dựa trên các nền tảng số. Tăng cường năng lực, kỹ năng cho đội ngũ giảng viên ứng dụng công nghệ thông tin và các tiến bộ khoa học - công nghệ vào hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, tập trung chủ yếu vào chuyển đổi quá trình đào tạo, bồi dưỡng từ học chủ yếu trực tiếp trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng gồm: Dạy và học trực tuyến qua in-tơ-nét, truyền hình; lớp học ảo; mô phỏng, số hóa bài giảng; các hoạt động xã hội, ngoại khóa... thực hiện số hóa, hình thành cơ sở dữ liệu về tài liệu, bài giảng phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên. Áp dụng học điện tử và phát huy cơ sở dữ liệu, học liệu, kết hợp các công cụ, phương tiện dạy và học thông minh, quản trị hiệu lực.

Bên cạnh đó, cần xây dựng những chính sách, chế độ phù hợp để bảo đảm cho đội ngũ giảng viên, nhân viên hỗ trợ giảng dạy đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số đồng bộ, như đào tạo, đào tạo lại, khuyến khích vật chất, tinh thần đổi mới phương pháp giảng dạy, vận dụng kỹ thuật số gắn với nội dung giảng dạy,...

Thứ năm, huy động nguồn lực cho chuyển đổi số trong đào tạo, bồi dưỡng.

Tăng cường huy động nguồn lực từ nhiều “kênh”, sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Khuyến khích các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và cá nhân áp dụng nhiều hình thức để tiến hành hỗ trợ đầu tư đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, mở rộng các “kênh” thu hút nguồn kinh phí chi cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Huy động, phân bổ, sử dụng kinh phí và các nguồn lực xã hội nhằm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đủ năng lực làm việc trong môi trường số. Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên được bảo đảm từ nguồn ngân sách nhà nước, từ tài trợ của tổ chức, cá nhân.

Kinh nghiệm của các nước là xây dựng cơ chế tương đối linh hoạt trong việc bảo đảm nguồn lực tài chính cho giáo dục, đào tạo nhân lực quốc gia nói chung và đào tạo, bồi dưỡng công chức nói riêng. Sự kết hợp nguồn lực công và tư giúp cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng trở nên đa dạng và linh hoạt, góp phần thực hiện các mục tiêu đề ra trong quá trình phát triển, chuyển đổi số.

Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế, tận dụng nguồn lực bên ngoài cho chuyển đổi số.

Hợp tác quốc tế, thu hút nguồn lực bên ngoài phục vụ đào tạo, bồi dưỡng công chức là một trong những kinh nghiệm hữu ích của các nước đi trước. Nhiều nước phát triển cung cấp nguồn vốn hỗ trợ cho các chương trình đào tạo, bồi dưỡng công chức tại các nước đang phát triển gắn với yêu cầu chuyển đổi số. Tăng cường bồi dưỡng, học hỏi kinh nghiệm trong đào tạo, bồi dưỡng phù hợp môi trường số là một trong những ưu tiên của nhiều quốc gia. Chủ động hợp tác quốc tế trong việc tham gia quản lý các tài nguyên chung trong môi trường số và trên không gian mạng; tham gia các tổ chức quốc tế và chủ trì, dẫn dắt triển khai một số sáng kiến về chuyển đổi số.

Hợp tác quốc tế là một giải pháp quan trọng để thực hiện chuyển đổi số, đặc biệt là thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, trong đó có đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị. Cơ sở đào tạo, tổ chức liên quan của Việt Nam hợp tác với các đối tác công nghệ lớn trên thế giới để nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, tiên phong áp dụng công nghệ mới, mô hình mới về giáo dục, đào tạo vào Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự đồng lòng, chung sức của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, chúng ta nhất định thực hiện thành công cuộc cách mạng chuyển đổi số, tạo ra bước đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất, đưa đất nước ta, dân tộc ta vươn mình vượt bậc trong kỷ nguyên mới.

PGS, TS. Vũ Thanh Sơn / Cục trưởng Cục Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương

Nguồn Xây Dựng Đảng: http://www.xaydungdang.org.vn/can-bo/thuc-day-chuyen-doi-so-trong-dao-tao-boi-duong-ly-luan-chinh-tri-22490
Zalo