Thúc đẩy các công cụ tăng trưởng xanh
Từ kết quả giám sát của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội nhấn mạnh việc thay đổi tư duy từ tăng trưởng kinh tế thuần túy sang phát triển 'kinh tế xanh' để hướng tới phát triển bền vững.

Quang cảnh Phiên họp. Ảnh: VPQH
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, ngày 28/10, Quốc hội dành cả ngày thảo luận ở hội trường về Báo cáo của Đoàn Giám sát và Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về kết quả giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành”.
Thể chế hóa nguyên tắc môi trường là trụ cột bắt buộc trong phát triển bền vững
Tham gia thảo luận, đại biểu Nguyễn Ngọc Sơn (TP. Hải Phòng) - đồng tình với đánh giá trong Báo cáo của Đoàn giám sát và Báo cáo của Chính phủ về thực trạng môi trường Việt Nam hiện nay khi năng lực quản lý môi trường, hạ tầng xử lý rác, nước, khí, dữ liệu… còn thiếu đồng bộ. Tự chủ về công nghệ môi trường, vật liệu tái chế, thiết bị quan trắc, công nghệ carbon… còn rất hạn chế. Môi trường vẫn là “trụ cột yếu” trong phát triển bền vững và chưa được đầu tư tương xứng.
Tỷ lệ chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường thấp, chỉ xấp xỉ 0,7%ngân sách nhà nước, nhiều địa phương dưới 0,3%, không đủ chi cho quan trắc, xử lý rác, truyền thông, thanh tra, thiếu chính sách đầu tư công cho hạ tầng xử lý chất thải liên vùng, quan trắc tự động, hệ thống cảnh báo môi trường - đại biểu nêu thực tế.
Cũng theo đại biểu, việc thể chế hóa 3 trụ cột môi trường - kinh tế - xã hội chưa đồng bộ; công cụ kinh tế môi trường chậm phát triển. Thuế môi trường chủ yếu thu từ xăng dầu, không tái đầu tư hiệu quả, phí xả thải chưa được thu thực chất (đặc biệt với nước thải, khí thải, chất thải rắn), tín chỉ carbon, DPP, kinh tế tuần hoàn… mới dừng ở chính sách, thiếu thực thi.

Đại biểu Nguyễn Ngọc Sơn tham gia thảo luận tại Hội trường
Từ thực tế này, đại biểu Nguyễn Ngọc Sơn đề nghị Chính phủ cần tiếp tục phân tích đánh giá kỹ lưỡng vấn đề. Bởi chỉ khi nào coi môi trường là một trụ cột đúng nghĩa, mới có thể gắn trách nhiệm BVMT vào đầu tư công, đầu tư tư nhân; áp dụng công cụ thị trường: thuế xanh, tín chỉ carbon, phí xả thải; lồng ghép môi trường vào quy hoạch, đấu thầu, ngân sách, chỉ tiêu tăng trưởng; định giá được tài nguyên - dịch vụ hệ sinh thái để đưa vào hạch toán quốc gia. Điều này còn là cơ sở thể chế hóa các công cụ tăng trưởng xanh.
“Môi trường minh bạch là “hạ tầng thể chế” hấp dẫn đầu tư, chứ không phải chi phí cản trở. Chính môi trường là động lực cho đổi mới sáng tạo, phát triển doanh nghiệp công nghệ nội địa. Không đợi có công nghệ rồi mới BVMT, mà chính môi trường sẽ tạo nhu cầu công nghệ” - đại biểu chỉ rõ.
Đầu tư FDI chất lượng cao chỉ đến với những nơi có tiêu chuẩn môi trường rõ ràng, vì vậy, nếu không có tiêu chuẩn môi trường rõ ràng, nhất quán, Việt Nam sẽ bị loại khỏi chuỗi cung ứng xanh toàn cầu, kể cả khi có giá nhân công rẻ.
Đại biểu Nguyễn Ngọc Sơn
Do đó, đại biểu kiến nghị cần tiếp tục thể chế hóa nguyên tắc môi trường là trụ cột bắt buộc trong 3 trụ cột phát triển bền vững.
Trong đó, tập trung phát triển công nghiệp môi trường như một ngành kinh tế độc lập. Đây là là nền tảng để Việt Nam tự chủ thiết bị, công nghệ, dịch vụ xử lý, tái chế, quan trắc thay vì lệ thuộc nhập khẩu, tạo chuỗi giá trị công nghiệp xanh, thu hút đầu tư chất lượng cao, làm nền cho kinh tế tuần hoàn, xuất khẩu công nghệ môi trường trong tương lai.
Cùng với đó, triển khai kinh tế tuần hoàn, thay đổi mô hình sản xuất, tiêu dùng giúp giảm phát thải, giảm áp lực tài nguyên và xử lý rác, tạo ra mô hình tăng trưởng mới ít tài nguyên, ít carbon, nhiều giá trị.
Lồng ghép môi trường vào quy hoạch, đầu tư công, áp dụng công cụ tài chính và kinh tế môi trường; biến môi trường thành hành vi kinh tế thông qua phí, thuế, tín chỉ, đấu giá, thị trường, thúc đẩy xã hội hóa, giảm phụ thuộc ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, việc xây dựng hệ thống dữ liệu, quan trắc, chỉ số môi trường quốc gia giúp Quốc hội, Chính phủ, người dân giám sát được chất lượng môi trường, tiến độ cam kết xanh; kết nối chính sách môi trường với hội nhập và đầu tư xanh.
Đại biểu Sơn cũng đề nghị cần tăng đầu tư công và chi ngân sách cho môi trường, trong đó, quy định tỷ lệ tối thiểu 1% tổng chi ngân sách nhà nước dành cho sự nghiệp môi trường; bố trí vốn đầu tư công trung hạn cho các dự án: xử lý chất thải liên tỉnh, sàn tín chỉ carbon, quan trắc tự động; cân nhắc hình thành Quỹ đầu tư môi trường xanh quốc gia, cho vay ưu đãi, bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp môi trường.
Đồng thời, xây dựng hệ thống công cụ kinh tế môi trường theo hướng điều chỉnh và thực hiện thu phí xả thải tại các khu công nghiệp, đô thị cho phù hợp; vận hành sàn tín chỉ carbon quốc gia chậm nhất đầu năm 2026; áp dụng bảo hiểm môi trường, đấu thầu dịch vụ môi trường công khai, hợp đồng môi trường theo kết quả (PbR); gắn môi trường với đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; gắn thực thi môi trường với cam kết ESG, Net Zero, CBAM… để doanh nghiệp bắt buộc tuân thủ theo chuỗi cung ứng toàn cầu…
Đồng quan điểm, đại biểu Thạch Phước Bình (Vĩnh Long) - nêu quan điểm: Đã đến lúc xem môi trường là chỉ số năng lực điều hành quốc gia, không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật. Đại biểu đề nghị Quốc hội đưa “GDP xanh”, “tăng trưởng cacbon thấp”, “chỉ số sức khỏe môi trường (EPI)” vào hệ thống chỉ tiêu phát triển quốc gia.
Đồng thời, sớm sửa đổi Luật BVMT, bổ sung Luật Kinh tế tuần hoàn, quy định rõ trách nhiệm sản phẩm “từ khi sinh ra đến khi rời thị trường”, để doanh nghiệp không thể đẩy chi phí ô nhiễm cho xã hội.
Thúc đẩy phát triển thị trường tín chỉ carbon
Cùng quan tâm đến định hướng phát triển nền kinh tế xanh, đại biểu Hà Hồng Hạnh (Khánh Hòa) - nhấn mạnh, một trong những điểm mới, có ý nghĩa chiến lược của Luật BVMT 2020 là việc lần đầu tiên quy định rõ về cơ chế thị trường carbon trong nước, bao gồm hạn ngạch phát thải khí nhà kính, tín chỉ carbon và sàn giao dịch carbon quốc gia.

Đại biểu Hà Hồng Hạnh phát biểu thảo luận. Ảnh: VPQH
Đây là bước ngoặt quan trọng, thể hiện tư duy đổi mới của Việt Nam trong quản lý khí nhà kính, phù hợp với các cam kết quốc tế mà nước ta đã tham gia, đặc biệt là Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu và cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 mà Thủ tướng Chính phủ đã công bố tại Hội nghị COP26 - đại biểu nêu quan điểm.
Cơ chế giao dịch tín chỉ carbon là một công cụ kinh tế thị trường giúp khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức giảm phát thải khí nhà kính, đồng thời tạo ra nguồn tài chính xanh để tái đầu tư cho các hoạt động phát triển bền vững. Đây không chỉ là cơ chế môi trường, mà còn là cơ chế phát triển kinh tế mới, mở ra một thị trường tiềm năng hàng tỷ USD mỗi năm nếu chúng ta tổ chức tốt. Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển cơ chế này.
Đại biểu Quốc hội Hà Hồng Hạnh
Tuy nhiên, đại biểu nhận thấy, việc triển khai cơ chế giao dịch tín chỉ carbon còn chậm và gặp nhiều vướng mắc. Vì vậy, để thúc đẩy thị trường này phát triển hiệu quả, đại biểu đề nghị cần sớm hoàn thiện khung pháp lý, đặc biệt là Nghị định về vận hành sàn giao dịch carbon và quy định cụ thể về phân bổ, mua bán hạn ngạch phát thải; quy định rõ trách nhiệm của từng Bộ, ngành, địa phương trong việc kiểm kê và xác nhận giảm phát thải...
Đồng thời, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về phát thải khí nhà kính, thống nhất từ trung ương đến doanh nghiệp; đầu tư mạnh cho công nghệ đo đạc, kiểm chứng và giám sát (MRV), đảm bảo tính minh bạch và độ tin cậy.
Đại biểu Hà Hồng Hạnh cũng đề xuất Nhà nước có chính sách đào tạo, tư vấn, tín dụng xanh và ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp tiên phong giảm phát thải, hỗ trợ chi phí kiểm toán và đăng ký tín chỉ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Song song đó, thúc đẩy hợp tác quốc tế, tham gia sâu hơn vào các cơ chế giao dịch carbon khu vực và toàn cầu, để mở rộng đầu ra cho tín chỉ carbon Việt Nam, tránh tình trạng “đóng khung” trong thị trường nội địa. Cùng với đó, cần tăng cường truyền thông và giáo dục cộng đồng về lợi ích của cơ chế này, giúp các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là doanh nghiệp, hiểu rằng giảm phát thải không chỉ là nghĩa vụ mà còn là cơ hội kinh tế xanh.



























