Thu hút người học STEM bằng học phí, học bổng nhưng cần có điều kiện đi kèm
Để đảm bảo hiệu quả đầu tư, chính sách học phí, học bổng cho người học ngành STEM cần đi kèm với các tiêu chí tuyển chọn chặt chẽ để tránh phân bổ dàn trải.
Trong các ngành khoa học cơ bản và công nghệ then chốt, Hóa học giữ vai trò đặc biệt quan trọng khi là nền tảng của nhiều ngành công nghiệp trọng điểm như dược phẩm, vật liệu mới, năng lượng, môi trường và công nghệ sinh học. Việc đầu tư đào tạo, bồi dưỡng nhân tài trong lĩnh vực này sẽ tạo điều kiện hình thành đội ngũ chuyên gia có năng lực nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn. Từ đó nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của các ngành sản xuất trong nước.
Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã nhấn mạnh việc: “Có cơ chế, chính sách hấp dẫn về tín dụng, học bổng và học phí để thu hút học sinh, sinh viên giỏi theo học các lĩnh vực toán học, vật lý, sinh học, hóa học, kỹ thuật và công nghệ then chốt, nhất là ở các trình độ sau đại học. Xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo tài năng trên các lĩnh vực”.
Nhiều nguyên nhân khiến người học không mặn mà
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đại Lâm - Chủ tịch Hội đồng giáo sư liên ngành Hóa học - Công nghệ thực phẩm năm 2024, Viện trưởng Viện Khoa học vật liệu - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cho biết: Trong những năm gần đây, số lượng người học theo đuổi ngành Hóa học đang có xu hướng giảm rõ rệt, bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân đáng chú ý.
Hiện nay, không ít người cho rằng cơ hội việc làm trong lĩnh vực này còn hạn chế, mức thu nhập khởi điểm không cao, trong khi lại yêu cầu đào tạo chuyên sâu và thời gian học tập kéo dài.
Hơn nữa, tính chất học thuật của ngành Hóa học đòi hỏi nỗ lực và sự kiên trì rất lớn. Chương trình học tập thường nặng với hàm lượng lý thuyết và thực hành cao, khiến không ít học sinh cảm thấy áp lực. Đồng thời, sự thay đổi trong xu hướng chọn ngành học cũng ảnh hưởng mạnh đến ngành Hóa học khi ngày càng nhiều học sinh lựa chọn ngành học dựa trên xu thế thị trường hoặc kỳ vọng tài chính, thay vì theo đuổi đam mê khoa học.
So với các ngành học hot theo xu hướng, ngành Hóa học chưa được định hướng và truyền thông một cách đúng mức, khiến vai trò chiến lược của ngành học vẫn chưa được nhìn nhận đầy đủ. Công tác hướng nghiệp hiện nay còn hạn chế, dẫn đến nhiều người cho rằng Hóa học chỉ gắn với giảng dạy hoặc nghiên cứu hàn lâm, mà không thấy hết tiềm năng nghề nghiệp phong phú trong lĩnh vực này.

Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đại Lâm - Chủ tịch Hội đồng giáo sư liên ngành Hóa học - Công nghệ thực phẩm năm 2024, Viện trưởng Viện Khoa học vật liệu - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Ảnh: NVCC
Từ thực tiễn đó, Giáo sư Lâm cho rằng để thu hút nhiều học sinh, sinh viên theo đuổi lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ (STEM) nói chung, cũng như ngành Hóa học nói riêng thì cần có các cơ chế, chính sách phù hợp nhằm tạo điều kiện học tập, nghiên cứu và đảm bảo đầu ra hấp dẫn.
Theo đó, cần có chính sách cung cấp các khoản vay tín dụng học phí với lãi suất thấp hoặc không lãi suất để giảm bớt áp lực tài chính cho sinh viên và gia đình, tạo điều kiện thuận lợi cho người học theo đuổi ngành học có tính chất chuyên sâu và đòi hỏi thời gian đào tạo dài hơn.
Mặt khác, xây dựng học bổng khuyến khích dành cho sinh viên xuất sắc, đặc biệt ở những ngành khoa học cơ bản ít người theo học. Hỗ trợ chi phí nghiên cứu, thực tập giúp sinh viên có cơ hội tiếp xúc với thực tiễn và phát triển kỹ năng.
Thứ hai, các doanh nghiệp có thể liên kết với trường đại học để đảm bảo cơ hội việc làm, tạo động lực cho sinh viên theo đuổi ngành học. Hỗ trợ sinh viên tích lũy kinh nghiệm thực tế, đồng thời có thêm thu nhập để trang trải chi phí học tập. Đối với cơ sở đào tạo cần đổi mới phương pháp giảng dạy, giảm lý thuyết hàn lâm, tăng cường thực hành và ứng dụng thực tiễn để giúp sinh viên hứng thú hơn.
Bên cạnh đó cần cung cấp kinh phí cho các dự án khoa học tiềm năng, khuyến khích sinh viên sáng tạo và thương mại hóa sản phẩm. Xây dựng các trung tâm nghiên cứu, phòng thí nghiệm hiện đại, hỗ trợ các nhóm nghiên cứu trẻ. Không ngừng giới thiệu các cơ hội nghề nghiệp hấp dẫn, tổ chức chương trình trải nghiệm STEM trong trường phổ thông để tạo niềm yêu thích với khoa học và công nghệ.
Về phía Nhà nước, có thể ban hành chính sách ưu đãi thuế, lương khởi điểm hấp dẫn hoặc hỗ trợ chi phí nhà ở cho sinh viên STEM sau khi tốt nghiệp. Miễn/giảm học phí cho sinh viên cam kết làm việc trong ngành khoa học - công nghệ trong một thời gian nhất định (tương tự như các chương trình thu hút bác sĩ về vùng sâu, vùng xa).

Ngành Hóa học giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển khoa học công nghệ của quốc gia. Ảnh: Đào Hiền
Đồng tình với quan điểm trên, Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Quang Khiếu - Trưởng khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế cũng cho rằng, có nhiều nguyên nhân khiến số lượng sinh viên theo đuổi ngành Hóa học ngày một giảm, trong đó đặc biệt phải nhắc đến thực trạng nghề nghiệp từ ngành học thiếu tính hiển thị trong xã hội.
Theo đánh giá của Giáo sư Đinh Quang Khiếu, nếu so sánh với các ngành học hot như Công nghệ thông tin, Y dược với những hứa hẹn về mức thu nhập cao thì lĩnh vực hóa học còn thua kém về sức cạnh tranh. Chưa kể, chương trình đào tạo ngành học lại nặng lý thuyết, ít ứng dụng thực tiễn nên người học cần đầu tư nhiều công sức trong quá trình học tập, đặc biệt là trình độ sau đại học.
Do đó, để thu hút người học đến với lĩnh vực này, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp thiết thực và lâu dài. Trước hết, cần thiết lập các chương trình học bổng đầu vào trong suốt quá trình học dành cho học sinh giỏi, đặc biệt là các em đạt giải quốc gia, quốc tế hoặc có tiềm năng nghiên cứu nổi bật trong lĩnh vực khoa học tự nhiên.
Song song đó, cần đầu tư nâng cấp hệ thống phòng thí nghiệm hiện đại, mở rộng cơ hội thực hành nghiên cứu và tăng cường hoạt động STEM ngay từ bậc phổ thông nhằm khơi dậy niềm đam mê khoa học từ sớm. Các cuộc thi khoa học tự nhiên, STEM và sáng tạo công nghệ quy mô vùng và quốc gia cũng cần được tổ chức thường xuyên, trở thành sân chơi trí tuệ giúp học sinh thể hiện năng lực, phát triển tư duy sáng tạo và gắn bó hơn với các ngành khoa học cơ bản.
Cơ sở đào tạo nên tích cực tạo cơ hội cho người học được tiếp cận thực tiễn thông qua cơ chế "đặt hàng đề tài nghiên cứu sinh viên" của doanh nghiệp. Đồng thời, mở rộng các chương trình học bổng gắn với thực tập – việc làm, đặc biệt tại các tập đoàn khoa học – công nghệ và startup công nghệ cao để mở ra lộ trình nghề nghiệp rõ ràng và hấp dẫn cho người học.
Ngoài ra, cần hình thành các trung tâm chuyển giao công nghệ và vườn ươm khởi nghiệp khoa học – công nghệ trong các trường đại học, góp phần thương mại hóa kết quả nghiên cứu và hỗ trợ sinh viên, giảng viên phát triển ý tưởng khởi nghiệp. Mặt khác, cũng cần tạo điều kiện để giảng viên được tham gia nghiên cứu thực chất thay vì chỉ tập trung vào giảng dạy lý thuyết nhằm lan tỏa tinh thần khoa học đến sinh viên một cách chân thực và truyền cảm hứng hơn. Đẩy mạnh truyền thông về vai trò chiến lược của các ngành khoa học tự nhiên – công nghệ trong phát triển đất nước, cũng như tôn vinh kịp thời các nhà khoa học trẻ có thành tựu nổi bật, nhằm tạo dựng hình mẫu và động lực học tập, nghiên cứu cho thế hệ trẻ.
Cần có cơ chế triển khai rõ ràng và mang tính chiến lược
Nhận xét về nội dung xây dựng cơ chế, chính sách cho các ngành khoa học cơ bản tại Nghị quyết 57, Giáo sư Đinh Quang Khiếu khẳng định việc đưa ra định hướng hỗ trợ học phí, tín dụng, học bổng, nhất là ở bậc sau đại học là một bước đi chiến lược và kịp thời trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu về nhân lực trình độ cao ngày càng gay gắt. Tuy nhiên, để Nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống, cần có cơ chế triển khai rõ ràng, huy động hiệu quả nguồn lực xã hội, đặc biệt từ doanh nghiệp và viện nghiên cứu.
Theo đó, các học bổng tài trợ còn rất khiêm tốn do thiếu kết nối giữa nhà trường và doanh nghiệp. Bởi nhiều doanh nghiệp chưa thấy lợi ích trực tiếp khi đầu tư vào đào tạo, trong khi các cơ sở đào tạo còn chưa chủ động gắn kết nghiên cứu với nhu cầu thị trường. Chưa kể rào cản về thủ tục, tài chính và văn hóa tài trợ cho giáo dục – khoa học cũng là nguyên nhân khiến doanh nghiệp e dè.
Vậy nên, thầy Khiếu cho rằng cần hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo cơ chế minh bạch và khuyến khích như miễn, giảm thuế hoặc ghi nhận đóng góp học bổng là một phần trách nhiệm xã hội. Đặc biệt xây dựng quỹ học bổng quốc gia theo mô hình đối ứng công – tư.
Đối với chính sách miễn học phí cho sinh viên ngành STEM cần đi kèm với tuyển chọn đầu vào nghiêm túc để đảm bảo miễn học phí là đầu tư có trọng điểm, không phải phúc lợi phổ quát. Khi đó người học cần cam kết học tập, nghiên cứu nghiêm túc, nếu không đạt yêu cầu có thể chuyển sang cơ chế học phí bình thường.
Bên cạnh đó, cần ưu tiên cho người học STEM được tiếp cận đề tài nghiên cứu, học bổng sau đại học, cơ hội làm việc trong viện – trường – doanh nghiệp công nghệ cao, hình thành một lộ trình phát triển dài hạn. Đồng thời các chương trình đào tạo tài năng cần có chuẩn đầu vào cao, được cập nhật theo xu hướng quốc tế, có sự tham gia của giảng viên đầu ngành, chuyên gia quốc tế và nhà nghiên cứu trẻ. Nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ trực tiếp dựa trên chất lượng đầu ra và số lượng sinh viên tài năng, qua đó hình thành một hệ sinh thái đào tạo – nghiên cứu tinh hoa, đóng góp vào năng lực cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên khoa học công nghệ.

Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Quang Khiếu - Trưởng khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế. Ảnh: NVCC
Trong khi đó, Giáo sư Trần Đại Lâm lại cho rằng, để đảm bảo hiệu quả đầu tư, chính sách miễn học phí cho người học các ngành STEM cần đi kèm với các tiêu chí tuyển chọn chặt chẽ. Bởi, việc miễn học phí đồng nghĩa với việc Nhà nước hoặc các tổ chức tài trợ đang đầu tư một nguồn ngân sách đáng kể, nên nếu không có cơ chế chọn lọc phù hợp, nguồn lực đó dễ bị phân bổ dàn trải, không tập trung vào những cá nhân thực sự có năng lực và tiềm năng phát triển.
Theo thầy Lâm, cần thiết lập một hệ thống tiêu chí đầu vào hợp lý nhưng nghiêm túc. Ở bậc đại học, thay vì chỉ dựa vào điểm thi tốt nghiệp có thể xét thêm các yếu tố như kết quả học tập các môn khoa học tự nhiên, thành tích tại các kỳ thi học sinh giỏi, hoặc các chứng chỉ chuyên môn liên quan. Một số trường cũng có thể triển khai hình thức phỏng vấn hoặc tổ chức các bài kiểm tra tư duy, toán học, logic nhằm đánh giá năng lực thật sự của thí sinh.
Bên cạnh đó, cần thiết kế một giai đoạn “thử thách” trong năm học đầu tiên, người học dù được miễn học phí cũng phải đạt được kết quả học tập ở mức tối thiểu để tiếp tục được hưởng chính sách trong những năm tiếp theo.
Đối với bậc sau đại học, tiêu chuẩn đầu vào cần khắt khe hơn. Cần xét tuyển dựa trên năng lực nghiên cứu, thể hiện qua các công trình khoa học đã thực hiện, bài báo công bố, hoặc kết quả học tập xuất sắc ở bậc đại học. Ngoài ra, ứng viên cần trình bày rõ ràng kế hoạch nghiên cứu, hướng đi và tiềm năng đóng góp cho lĩnh vực khoa học – công nghệ. Sau khi được chấp nhận miễn học phí, quá trình học tập và nghiên cứu cũng cần được theo dõi định kỳ thông qua các mốc đánh giá như công bố khoa học, đề tài có tính ứng dụng cao...
Để duy trì động lực học tập và tính cạnh tranh lành mạnh, việc miễn học phí nên gắn với cơ chế “có điều kiện” như sinh viên phải đạt được mức điểm trung bình tối thiểu (ví dụ GPA ≥ 3.0/4.0), hoặc có những kết quả nghiên cứu đáng kể mới được tiếp tục hỗ trợ.
Song, cần có học bổng nâng cao dành cho những người học có thành tích xuất sắc nhất để tạo động lực cạnh tranh tích cực, cũng như có cam kết đóng góp sau tốt nghiệp nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng nguồn lực, đồng thời gắn kết chặt chẽ giữa hỗ trợ đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho đất nước.

Để đảm bảo hiệu quả đầu tư, chính sách miễn học phí cho người học các ngành STEM cần đi kèm với các tiêu chí tuyển chọn chặt chẽ. Ảnh: Đào Hiền
Để khuyến khích các trường đại học tích cực triển khai và nâng cao chất lượng chương trình đào tạo tài năng trong các ngành STEM, cần xây dựng một hệ thống chính sách hỗ trợ toàn diện từ tài chính, nhân lực đến hợp tác và thu hút người học. Theo đó, Nhà nước và các tổ chức tài trợ cần có cơ chế đầu tư cụ thể cho chương trình tài năng, bao gồm hỗ trợ ngân sách xây dựng phòng thí nghiệm hiện đại, mua sắm trang thiết bị tiên tiến và cấp học bổng cho sinh viên xuất sắc.
Thứ hai, cần có chính sách đãi ngộ cạnh tranh để thu hút và giữ chân đội ngũ giảng viên chất lượng cao. Tạo điều kiện tham gia nghiên cứu quốc tế và phát triển học thuật để các giảng viên, nhà khoa học đầu ngành sẵn sàng tham gia giảng dạy, hướng dẫn sinh viên trong chương trình tài năng.
Về phía sinh viên, để thu hút những người giỏi nhất, các trường cần xây dựng chính sách học bổng hấp dẫn, tạo cơ hội trao đổi học thuật quốc tế và triển khai các hoạt động nghiên cứu từ sớm cho sinh viên có tiềm năng.
“So với chương trình đào tạo đại trà, chương trình tài năng cần được xây dựng với nhiều điểm khác biệt rõ nét. Trước tiên là tiêu chuẩn đầu vào cao hơn, chỉ tuyển những sinh viên có kết quả học tập xuất sắc, khả năng tư duy vượt trội và đam mê khoa học công nghệ. Nội dung đào tạo trong chương trình tài năng phải chuyên sâu, cập nhật các lĩnh vực mới, có tính liên ngành và linh hoạt hơn. Khi đó, phương pháp giảng dạy cũng được đổi mới mạnh mẽ, áp dụng mô hình học tập qua dự án, nghiên cứu và tương tác thực tiễn cao. Sinh viên chương trình tài năng thường có cơ hội tiếp cận đề tài nghiên cứu từ sớm, được thực tập tại các trung tâm nghiên cứu, doanh nghiệp công nghệ, từ đó nâng cao năng lực chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp.
Ngoài ra, môi trường học tập của chương trình tài năng cũng cần được thiết kế tối ưu, với lớp học quy mô nhỏ, được giảng viên hướng dẫn chặt chẽ, tạo điều kiện cho sinh viên phát triển toàn diện.
Sau khi tốt nghiệp, sinh viên từ chương trình tài năng có cơ hội cao tham gia chương trình sau đại học trong nước hoặc quốc tế, làm việc tại các viện nghiên cứu, doanh nghiệp công nghệ cao hoặc tiếp tục đóng góp cho hệ thống giáo dục – khoa học quốc gia”, Giáo sư Lâm nêu quan điểm.
Theo dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ liên quan đến chính sách tín dụng ưu đãi dành cho học sinh, sinh viên, học viên và nghiên cứu sinh theo học các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán (STEM), sinh viên khối ngành STEM (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học) sẽ được vay tín dụng toàn bộ học phí và mức tối đa 5 triệu/tháng cho sinh hoạt phí. Lãi suất ưu đãi bằng lãi suất cho vay đối với hộ nghèo và không cần bảo đảm tiền vay nếu dưới mức 500 triệu đồng.
Người vay có tối đa 12 tháng sau khi tốt nghiệp để bắt đầu trả nợ và thời hạn trả nợ tối đa bằng thời hạn giải ngân. Kỳ hạn trả nợ có thể được gia hạn nợ nếu người vay gặp khó khăn khách quan.
Chính sách áp dụng cho tất cả học sinh, sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh đang theo học các ngành khoa học sự sống, khoa học tự nhiên, máy tính và công nghệ thông tin, công nghệ tài chính, công nghệ kỹ thuật, kỹ thuật, kiến trúc và xây dựng, sản xuất và chế biến, toán và thống kê tại các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.