Thông qua Luật Tổ chức Quốc hội sửa đổi
Chiều 17/2, Quốc hội đã biểu quyết thông qua dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội.

Quốc hội biểu quyết thông qua dự án Luật. Ảnh: CTTĐT Quốc hội
Tiếp tục Kỳ họp bất thường lần thứ 9, chiều 17/2, với 461/461 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (chiếm 100% đại biểu tham gia biểu quyết và chiếm 96,44% tổng số đại biểu Quốc hội), dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội đã được thông qua.
Luật đã bổ sung và làm rõ hơn thẩm quyền của Quốc hội trong việc thực hiện nhiệm vụ “làm luật và sửa đổi luật” quy định tại khoản 1 Điều 70 của Hiến pháp năm 2013; thống nhất với cách thức quy định hiện nay tại dự thảo Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi) và dự thảo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi) cũng được Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp này.
Theo đó, việc xây dựng luật sẽ có những thay đổi căn bản, tập trung vào những vấn đề mang tính ổn định, lâu dài; tập trung vào các nội dung liên quan đến quyền con người, quyền, nghĩa vụ của công dân, tố tụng tư pháp, các vấn đề có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội, mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân và xã hội.
Đối với các nội dung quản lý Nhà nước theo từng lĩnh vực, vấn đề mới, có tính kiến tạo phát triển, chưa có thực tiễn kiểm nghiệm, Luật chỉ quy định các nội dung chính sách có tính nguyên tắc, định hướng. Quốc hội phân quyền cho Chính phủ, cơ quan trong bộ máy Nhà nước cụ thể hóa quy định của luật.
Các cơ quan Nhà nước thực hiện phân cấp bảo đảm phù hợp với năng lực tổ chức thực hiện của từng cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương các cấp và kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn. Luật cơ bản không "quy định các nội dung về thủ tục hành chính, về quy trình, quy chuẩn chuyên môn, kỹ thuật và các nội dung có tính biến động cao".
Về kỳ họp Quốc hội, trên cơ sở tiếp thu ý kiến của đại biểu, Luật đã sửa đổi, bổ sung theo hướng cụ thể hóa quy định về “Quốc hội họp bất thường”.
Theo đó, Quốc hội họp thường lệ mỗi năm hai kỳ. Kỳ họp không thường lệ của Quốc hội được tổ chức khi có yêu cầu của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội để kịp thời xem xét, quyết định các vấn đề cấp bách thuộc thẩm quyền của Quốc hội; đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đồng thời, sẽ tiếp tục nghiên cứu việc đánh số các kỳ họp thường lệ và không thường lệ của Quốc hội cho phù hợp để thực hiện thống nhất từ nhiệm kỳ sau.
Lần sửa đổi này cũng đã bổ sung quy định liên quan đến việc tạm đình chỉ hoặc mất quyền đại biểu Quốc hội.
Theo đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội.
Việc tạm đình chỉ được thực hiện trong hai trường hợp. Một là khi đại biểu Quốc hội bị khởi tố bị can. Hai là trong quá trình xem xét, xử lý hành vi vi phạm của đại biểu Quốc hội, có cơ sở xác định phải xử lý kỷ luật từ cảnh cáo trở lên đối với đại biểu Quốc hội là cán bộ, công chức, viên chức hoặc xử lý bằng pháp luật hình sự mà cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đã có văn bản đề nghị tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội.
Bên cạnh đó, đại biểu Quốc hội được trở lại thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu và khôi phục các lợi ích hợp pháp khi cơ quan có thẩm quyền có quyết định, kết luận về việc không vi phạm, không xử lý kỷ luật, quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án đối với đại biểu, hoặc kể từ ngày bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật tuyên đại biểu đó không có tội hoặc được miễn trách nhiệm hình sự.
Ngoài ra, trong trường hợp đại biểu Quốc hội bị xử lý kỷ luật, tùy theo tính chất, mức độ có thể xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định việc cho trở lại thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu hay đề nghị Quốc hội bãi nhiệm đại biểu Quốc hội.
Trong trường hợp bị kết tội bằng bản án, quyết định của tòa án thì đương nhiên mất quyền đại biểu Quốc hội kể từ ngày bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật.