Thơ trẻ - tự vẽ đường bay
Những năm gần đây xuất hiện nhiều nhà thơ trẻ dùng thơ để nghị luận về thơ, càng cho thấy thơ luôn được đặt vào tình thế tái định nghĩa, tái nhận thức.

Một tập thơ của tác giả trẻ ra mắt gần đây.
Nữ sĩ Ba Lan Wislawa Szymborska (Nobel văn chương 1996) từng viết: “Thơ là gì vậy/ với câu hỏi này/ đã có nhiều câu trả lời run rẩy”. Phải, thơ (cũng như văn chương hay nghệ thuật nói chung) luôn ở trạng thái trên - đường, là cái - đang - là, không bao giờ có thể xong xuôi, hoàn tất.
Như một bất ngờ thú vị, những năm gần đây xuất hiện nhiều nhà thơ trẻ dùng thơ để nghị luận về thơ. Đó là các trường hợp như Hoàng Thụy Anh với thi tập “Người đàn bà sinh ra từ mưa”, Bùi Thị Diệu (“Còn bông cúc vàng ở lại”), Nguyễn Thị Thúy Hạnh (“Văn học vết thâm”), Hà Hương Sơn (“Cuộc hành hương của giấc mơ”), Hương Giang (“Mê lộ bạch dương”), Nam Thi (“Cô độc nên thơ”), Khét (“Ở đậu trong nhau” và “Chín nhánh da vàng” - Giải thưởng Tác giả trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022), Vĩ Hạ (“Đi tìm những bóng người” - Giải thưởng Tác giả trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022), Đoàn Nguyễn Anh Minh (“Tôi học ca hát như những cuộc vui mình đã chọn”, “Không còn thơ anh vẽ cho em những hình sao không hái từ trời”), Trần Việt Hoàng (“Ngày chưa sương vội”), Minh Anh “Một ngày từ bên trong” - Giải A của Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2023), Nguyễn Thị Thuyền với những bài thơ lẻ...
Hoàng Thụy Anh vừa quyết liệt kiến tạo cái nhân vị đàn bà của mình, để tận hiến và tận hưởng từng sát-na hiện sinh, vừa nỗ lực khai phóng một cách thơ khác, để kháng cự lại những cách thơ nhàm nhảm sáo giả. Mỗi khúc rời trong “Người đàn bà sinh ra từ mưa” vừa là tuyên ngôn, vừa là sản phẩm sáng tạo, mà giữa tuyên ngôn và sản phẩm sáng tạo dường như ít có khoảng cách.
“Hoài nghi các tứ thơ” đã trở nên bão hòa, xác quyết “để mặt mộc” cho thơ, Nguyễn Thị Thuyền dẫn dụ người đọc men theo “cơn giông thăm dò trạm gác của bài thơ lạ”. “Phần còn lại [của văn bản] tạo đường cong dấu hỏi”: Đây cũng là một cách thơ, tại sao không?
Minh Anh (sinh năm 2007) coi thơ là một cái gì đó như “đường chân trời không thể nắm được”, nên cứ mặc kệ thơ mình đứng ngoài mọi định nghĩa. Thơ trong tập thơ “Một ngày từ bên trong” của chị tự nhiên như hơi thở, là thư ký trung thành của con tim, là “lời nói thật lòng”, là “những khoảnh khắc mà con tim đã giữ lại”.
Đọc thơ Minh Anh, đừng cố công thông diễn tường minh. Cứ thả lỏng để lắng nghe bài thơ gieo tạo trong ta một cảm giác, một khải thị, làm lung lay bất an trong ta một đóng khung mặc định nào đó, hối thúc dụ mời ta mài sắc giác quan để thâu nhận thế giới theo cách của mình. Mọi can gián bắt bẻ xoa đầu dạy dỗ nếu có ở đâu đó thì chắc hẳn cũng chẳng hề hấn gì đến người trẻ viết thơ này. Minh Anh “trượt”, “biệt tịch”, bất tuân: “chúng ta mỗi người một con đường/ tìm kiếm chính mình/ trong không gian yên lặng nhất”.
Trong tác phẩm “Hoàng tử bé” của nhà văn và phi công người Pháp Antoine de Saint-Exupéry, một nhân vật nói với một nhân vật khác: “Cậu không cần cố gắng để trưởng thành đâu. Nó sẽ tự tìm tới cậu, làm cậu đau lòng, làm cậu muộn phiền, và làm cậu, phải lớn”. Văn chương cũng vậy, là câu chuyện cá nhân, là sự thôi thúc tự thân, tận tâm tận lực của mỗi chủ thể viết. Nói như Minh Anh: “phải chăng, bởi vì quá rõ/ bất kỳ ai lớn lên, sẽ lớn lên từ chính họ”. Thơ Minh Anh là “nghệ thuật của viết xuống”, áp sát cuộc sống, áp sát tiếng lòng. Mỗi lần cử hành nghi lễ “nghệ thuật của viết xuống”, thì “từ bản năng tự nhiên, từ sâu thẳm bên trong, tôi bước ra như một đứa trẻ chân thành một lần nữa”.
Phải, thơ nên là hơi thở nhẹ của ngôn từ. Thơ cần hồn nhiên, tự nhiên, chân thành. Tuy nhiên, thơ hồn nhiên tự nhiên khác với thơ đơn giản thật thà. Hồn nhiên tự nhiên là một biểu hiện đắc đạo của thơ, lúc này thơ tưởng như vô chiêu nhưng thực ra là sự xuất chiêu của một nội lực sung mãn thâm hậu. Và, đổi mới để tồn tại là quy luật tất yếu của thơ.
Giữa lưng chừng thiếu phụ, giấc mơ đầy một gánh, với ý chí tự do của gió, Bùi Thị Diệu trượt khỏi đường biên của mùa bằng thi tập “Còn bông cúc vàng ở lại”. Như lá giữa muôn ngàn phiến, đòi sắc xanh khác sắc vàng khác. Như chiếc bát trắng tinh, khát nỗi đầy, giêng, hai mùa gạo mới. Để rồi, từ gian nan tình yêu, những bài thơ cứ im lặng nở, ở lại bên đời, ấm hơn mặt trời, mặc kệ thời gian rơi đầy hai tay...
Trần Việt Hoàng (sinh năm 2002) tự nhận là “kẻ trọ giữa giấc mơ tìm mình”. Trên hành trình đi tìm nhân dạng ấy, chàng sớm tự phản tỉnh: “hãy đi xa từ chính con đường/ đừng điểm trang quá nhiều lên gương mặt ký ức”. Vì xác tín “bình minh phác sắc lên con đường trăm ngàn dấu chân”, nên thi sĩ xác quyết “định danh một lối rẽ”. Khoảng không ngoài kia bao dung, chàng “tự do thả cánh trước nghi lễ bầu trời”, tự “thắp những ngọn lửa vượt mưa để cháy”, chạm gặp “nắng vừa khởi nguyên”. Người thơ trẻ tuổi, lòng như sương mai. “Lòng này thẳm sâu nên chỉ nói lời khẽ”. Cứ thế, chàng “chín dần trong bình thản”. Ánh sáng “làm trong hơn cuộc hình dung”. Phải thế chăng mà chàng đặt tên cho thi tập đầu tay của mình là “Ngày chưa sương vội”...
Trẻ là tài sản, là đặc ân, là cơ hội để “vào được nước Thiên đàng”. Người viết trẻ hôm nay như “bầy chim bạc rời nơi ẩn trú/ sải niềm tin về phía mặt người” (thơ Nhung Nhung), như “lũ bồ câu cánh trắng/ vãi từng chùm tự do lên cao” (thơ Hoàng Thúy). Họ “sắp đặt bản thảo cuộc đời theo cách của mình/ thênh thang ngữ âm cỏ hoa/ hoan ca lời lời nắng gió” (thơ Hoàng Thụy Anh). Họ như ngựa cong vó “không đứng xếp hàng/ chẳng chen chúc vì cỏ/ mà hý vang/ xanh cả cánh đồng" (thơ Ngô Mậu Tình)... Tuy nhiên, họ đến hiện đại không phải từ chân không, mà là từ truyền thống, như Đoàn Nguyễn Anh Minh chân thành: “con yêu mọi thứ tiếng bố mẹ/ mang lại cho con dẫu con đã xa cách người thế nào/ con đã trở nên một cái cây tự tìm lấy trong đất cái hơi ấm người truyền lại muôn đời”.