Thơ Lê Xuân Sơn: Từ nhãn quan nhà báo đến trái tim thi sĩ
Với tập thơ vừa được NXB Hội Nhà văn ấn hành quý I/2025, ta thấy gương mặt thi ca của Lê Xuân Sơn (cựu Tổng biên tập Báo Tiền phong) hiện dần lên với nhãn quan của một nhà báo nhưng có trái tim thi sĩ đầy mẫn cảm.
Bài thơ "Đã từ lâu tôi là người thành phố" được lấy làm tựa đề cho tập thơ, giống như một bản hòa âm lặng lẽ, sâu lắng về nỗi hoài niệm quê hương, về sự chuyển dịch căn cước từ người nông thôn thành người đô thị, và về nỗi lo canh cánh trong lòng một người đã đi xa gốc rễ của mình quá lâu.
Bài thơ này là một lời tự sự đầy trăn trở, da diết nhớ về tuổi thơ và quê hương, nơi đã từng gắn bó máu thịt với tác giả. Trong đó, "thành phố" không chỉ là một không gian sống, mà còn là một ẩn dụ cho sự xa rời cội nguồn, sự hiện đại hóa lạnh lùng khiến con người dễ lãng quên nơi mình "chôn rau cắt rốn".
Bài thơ "Đã từ lâu tôi là người thành phố" là một bản giao hưởng của ký ức và bản sắc, là lời thì thầm nhắc con người đừng quên nơi mình sinh ra, đừng để căn cước bị xóa nhòa chốn đô thị phồn hoa.

Nhà thơ Lê Xuân Sơn.
Chuyển hóa chất liệu báo chí thành thi ca thế sự
Thơ của Lê Xuân Sơn thường khơi nguồn từ hiện thực và đời sống xã hội hôm nay. Trong đó, có một số bài thơ bắt đầu như từ một bản tin báo chí đã được chuyển hóa thành thi ca. Đáng chú ý, bài thơ "Có khi chúng ta là virus?", ngay từ nhan đề, nhà báo Lê Xuân Sơn đã đưa ra một câu hỏi không chỉ tu từ mà còn như một bản cáo trạng nhân văn. Với nhãn quan của một người chứng kiến thời cuộc, anh không miêu tả thiên tai như những hiện tượng đơn lẻ, mà xâu chuỗi chúng lại như hệ quả tất yếu của hành vi con người.
Dưới cái nhìn của một cây bút thời sự, bài thơ đã tổng hợp toàn cảnh những bất thường của khí hậu như: "Lửa cháy rừng", "Mưa giông trái mùa", "Tuyết rơi giữa hè", "Nước biển dâng", "ôzôn thủng nặng"… Tất cả đều hiện lên như dữ liệu, nhưng trong lời thơ, chúng không lạnh lùng mà rớm lệ. Chất liệu báo chí làm đầy đặn thực tiễn, còn tâm hồn thi sĩ biến chúng thành nỗi lo, nỗi đau.
Với lối viết dung dị nhưng ám ảnh, kết tinh của nhà báo - thi sĩ, Lê Xuân Sơn không viết bài thơ này như một tiếng gọi cảm xúc thuần túy. Anh viết nó như thể đang "soạn một bản tin cuối cùng của Trái đất", với câu chữ giản dị, đôi khi dửng dưng đến lạnh người, nhưng chính sự điềm tĩnh đó lại khiến bài thơ trở nên nghẹn ngào.
Ở đoạn thơ đầu: "Màn trời đen, trăng sao chẳng có/ Một bầu trời không thấy trăng sao". Không hề cầu kỳ. Nhưng sự vắng mặt của trăng sao, một hình ảnh tưởng chừng thơ mộng, lại trở thành dấu hiệu của sự bất ổn tự nhiên. Bầu trời mất đi ánh sáng thiên nhiên, chỉ còn ánh sáng nhân tạo là biểu tượng cho việc con người đang che lấp cả thiên nhiên bằng công nghiệp.
Câu thơ đắt giá nhất của bài thơ như một câu hỏi: "Người sẽ qua đời vì ta là virus đó chăng?!". Ở đây, Lê Xuân Sơn không gọi con người là "hung thủ", mà đặt ra một khả thể. Như một nhà báo đưa ra nghi vấn điều tra nhưng là điều tra chính giống loài mình. Câu hỏi đó, chứa cả sự run rẩy của nhân tính và sự tỉnh táo của lý trí.
Với thông điệp sâu sắc: Khi nhân loại trở thành mầm bệnh cho Mẹ Trái Đất, bài thơ của Lê Xuân Sơn là một lời tự vấn, một tiếng chuông cảnh tỉnh cho nhân loại. Trong dịch bệnh COVID, trong biến đổi khí hậu, trong rối loạn tự nhiên, con người có còn là nạn nhân hay đã trở thành tác nhân? Với hình ảnh Trái đất như một người mẹ đang "bạo bệnh", bài thơ khiến người đọc ngỡ ngàng, bởi nếu ta là virus, thì Trái đất không chết vì thiên tai, mà vì chính những đứa con mình mang nặng đẻ đau.
Bằng cách đưa ra câu hỏi, chứ không kết luận, Lê Xuân Sơn đã để lại dư âm dài hơn cả một bài thơ kết thúc. Người đọc mang câu hỏi ấy theo hành trình sống và buộc phải sống có trách nhiệm hơn. Khi ngôn ngữ báo chí hòa điệu với linh hồn thi ca "Có khi chúng ta là virus?" không chỉ là một bài thơ sinh thái, mà còn là một bài xã luận bằng thơ. Tác giả viết không để khóc thương, không để đổ lỗi mà để kéo người đọc về phía nhận thức và tỉnh ngộ.
Lê Xuân Sơn bằng ngòi bút báo chí và trái tim thi sĩ đã không nói to, nhưng lời thơ anh như thì thầm bên tai từng người: "Nếu ta còn tồn tại, ta hãy sống như kháng thể và đừng là virus nữa". Nhưng các bài thơ thế sự kiểu này cũng đặt Lê Xuân Sơn vào thế, đôi khi giàu chất hiện thực mà lại thiếu chất thơ, đòi hỏi anh phải có những điều chỉnh về mặt ngôn ngữ thơ.
Vượt lên với vẻ đẹp lãng mạn của lục bát trữ tình
Không chỉ mạnh ở thể loại thơ trữ tình thế sự, Lê Xuân Sơn còn là một cây bút trữ tình lãng mạn khá say đắm ở thể loại lục bát. Anh viết lục bát với giọng điệu nhẹ mà sâu, dân gian mà hàm ngôn triết lý. Các câu thơ thường chất chứa nỗi buồn nhân thế, tiếng thở dài về sự đổi thay, chia ly và cõi người mênh mang. Với hình ảnh đời thường mà chạm được cái phi thường, thơ anh là lời thủ thỉ của một tâm hồn từng trải, không phô trương mà lắng đọng:
Tàn nhang cong dáng cây cầu
Nửa vin đời thực, nửa vào hư vô
(Trăm ngày tiễn mẹ)
Hai câu thơ mở ra hình ảnh vừa cụ thể vừa siêu thực. "Tàn nhang" là vết dấu của nén hương thắp trên mộ mẹ, được ví với "dáng cây cầu cong", gợi nên sự kết nối giữa hai bờ thời gian: quá khứ với hiện tại, trần thế với âm gian. Câu sau mang chiều kích triết lý: "nửa vin đời thực, nửa vào hư vô". Kiếp người được nhìn như một hiện hữu dở dang khi một nửa còn lẩn khuất trong đời thường, một nửa đã hóa hư vô, tan vào cõi không. Câu thơ là lời tiễn biệt mẹ, nhưng cũng là tiếng thở dài cho kiếp nhân sinh mong manh, mờ ảo.
Phẩm chất thi sĩ trên còn đọng lại ở các câu lục bát sau:
Vườn ai sót ngọn cải ngồng
Mắt ai giờ đã như sông vắng đò
(Ta về)
Cặp lục bát này nhẹ như một tiếng thở, man mác như khói lam chiều. "Ngọn cải ngồng", một hình ảnh quê nhà thân thuộc trở thành chứng tích của sự vắng bóng, của một ai đó từng gắn bó nhưng giờ đã xa. "Mắt ai giờ đã như sông vắng đò" là hình ảnh rất gợi khi đôi mắt không còn ánh nhìn, như dòng sông hiu quạnh chẳng còn người ghé bến. Câu thơ là một tiếng vọng của nỗi nhớ, của sự chia xa và những trống trải không thể gọi thành tên.
Lòng người nào rõ nông sâu
Bằng như rút ván qua cầu, trầu ơi!
(Trầu không)

Tập thơ của nhà thơ Lê Xuân Sơn.
Câu lục bát này mang màu sắc dân gian đậm nét với hình ảnh "rút ván qua cầu" ví von tinh tế về sự tráo trở, phũ phàng của lòng người. Tiếng gọi "trầu ơi!" ở cuối không chỉ là cách gieo vần dân dã, mà còn như tiếng thở than, tiếng gọi hư vô tạo nên dư vang da diết. Câu thơ vừa nhẹ nhàng mà cay đắng, chất chứa nỗi niềm của kẻ trải đời. Những câu thơ hay như trên không phải là hiếm trong trường thơ trữ tình của Lê Xuân Sơn.
Cũng thi mạch lục bát ấy, ở bài viết về cố nhà thơ Hữu Loan, Lê Xuân Sơn lại có một chiêm nghiệm khác: "Ngang như ông, thẳng như ông/ Vẫn ngay, vẫn sững giữa giông bão đời/ Giờ thì mây gió dạo chơi/ Ông qua Vân Lỗi một thời khổ công?/ Tím sim áo có lành không/ Còn theo hoa lúa trên đồng cố hương?/Vân du Đèo Cả lên đường/ Chí trai Thanh thỏa bốn phương vẫy vùng/ Chẳng còn tương ngộ, tương phùng/ Cọp rừng mà chịu lâm chung ở nhà/ Khóc người như khóc mẹ già/ Bồng Lai giờ đã một nhà đoàn viên/ Mười năm về với cảnh tiên/ Tiếng thơ còn vọng triền miên cõi trần".
Một bài thơ tri ân, tiễn biệt tuy ngắn mà dày, như một nén nhang thơ gửi đến một tượng đài thi ca bất khuất. Lê Xuân Sơn khắc họa tiểu sử nhà thơ Hữu Loan bằng cảm xúc, viết bằng niềm kính trọng, và bằng lòng yêu mến một tâm hồn "cứng như đá và mềm như hoa sim" của ông. Đọc bài thơ này, ta không chỉ tiếc một con người đã ra đi, mà như được đứng trước tượng Hữu Loan lặng im giữa núi đồi Vân Lỗi.
Ở một góc nhìn khác, Lê Xuân Sơn sử dụng thể thơ lục bát thuần Việt để truyền tải thông điệp một cách mộc mạc nhưng đầy chất thơ. "Áo nâu ra đảo" là một bài thơ lục bát nhẹ như tiếng mõ, sâu như lời kinh, nhưng vang vọng tinh thần yêu nước lặng thầm và cao cả. Tác giả đã chọn một hình ảnh rất đặc biệt: những nhà sư là người tu hành đã mang đạo tâm ra với đảo xa, như mang ánh từ bi thắp sáng những chòi canh Tổ quốc giữa đại dương: "Vào chùa mà chẳng lánh đời/ Các thầy đau đáu biển khơi nước mình/ Trong từng tiếng mõ, câu kinh/ Lặng nghe da diết bao tình Trường Sa/ Từ nay nhận đảo là nhà/ Bồ đề vắng, lấy phong ba mát chùa…".
Lê Xuân Sơn là một cây bút đa năng, vừa thành công trong báo chí, vừa để lại dấu ấn trong thơ ca. Nhiều bài thơ của anh tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật trữ tình tự sự giàu bản sắc, thể hiện rõ những nét đặc trưng của thi ca. Lê Xuân Sơn không dùng thơ để "thơ mộng hóa" hiện thực, mà để chưng cất cảm xúc đời thường thành chất thơ tinh khiết với ngôn ngữ thơ mộc mạc, giàu chất dân gian và đời sống.