Thiếu tướng, Nhà giáo Nhân dân Vũ Quang Lộc: Khí phách người lính, trí tuệ người thầy

Với Thiếu tướng, PGS, TS, Nhà giáo Nhân dân Vũ Quang Lộc, nguyên Phó giám đốc Học viện Chính trị, những năm tháng nơi chiến trường đã dạy cho ông bài học sâu sắc nhất về giá trị của lý tưởng và vai trò của người cán bộ chính trị. Chính điều đó đã trở thành kim chỉ nam cho toàn bộ sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy của ông sau này.

Thép đã tôi trong lửa đỏ

Con đường binh nghiệp của Thiếu tướng, PGS, TS, Nhà giáo Nhân dân Vũ Quang Lộc bắt đầu như bao thanh niên thế hệ ông, bằng lý tưởng và lòng yêu nước trong sáng. Sinh ra trên vùng đất Phú Thọ, học tập dưới mái trường Hùng Vương danh tiếng và được kết nạp Đảng từ khi mới là học sinh lớp 10, ngọn lửa cách mạng đã sớm bùng cháy trong ông.

Năm 1970, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn quyết liệt, chàng sinh viên năm thứ ba của khoa Kinh tế Chính trị đầu tiên tại Đại học Kinh tế - Kế hoạch (nay là Đại học Kinh tế Quốc dân) đã cùng hàng nghìn trí thức trẻ hưởng ứng phong trào “Xếp bút nghiên lên đường chống Mỹ, cứu nước”. Thế nhưng, nhận thấy tiềm năng của người sinh viên ưu tú, chỉ sau vài tháng huấn luyện, cấp trên đã quyết định cho ông trở về trường để hoàn thành nốt chương trình học.

Con đường học thuật rộng mở trước mắt khi nhà trường ngỏ lời giữ ông ở lại làm giảng viên sau khi tốt nghiệp. Nhưng với người đảng viên trẻ Vũ Quang Lộc, lý tưởng và trách nhiệm của người lính còn mãnh liệt hơn. Ông đã không do dự từ chối vinh dự đó để quay trở lại đơn vị, nơi ông thuộc về, nơi đồng đội đang chờ.

 Vẻ ngoài bình dị, thư thái ẩn chứa bên trong Thiếu tướng, PGS, TS, Nhà giáo Nhân dân Vũ Quang Lộc, nguyên Phó giám đốc Học viện Chính trị là bản lĩnh của người lính đã tôi qua lửa đạn và trí tuệ của một nhà khoa học.

Vẻ ngoài bình dị, thư thái ẩn chứa bên trong Thiếu tướng, PGS, TS, Nhà giáo Nhân dân Vũ Quang Lộc, nguyên Phó giám đốc Học viện Chính trị là bản lĩnh của người lính đã tôi qua lửa đạn và trí tuệ của một nhà khoa học.

Thực tiễn chiến trường đã thực sự tôi luyện nên “chất thép” trong ông, đặc biệt là trong hai năm (1979-1980) trực tiếp chiến đấu tại mặt trận biên giới phía Bắc. Được điều động từ Học viện Chính trị lên làm Chính trị viên Tiểu đoàn thuộc Sư đoàn Bộ binh 337, ông đã sống trong những ngày tháng căng thẳng và gian khổ nhất, chốt giữ một trong những hướng trọng yếu nhất ở xã Hải Yến, huyện Cao Lộc (nay là xã Cao Lộc 2, tỉnh Lạng Sơn).

Ông kể về sự gian khổ và căng thẳng tột độ, khi toàn đơn vị phải đối mặt với một kẻ thù đông hơn gấp nhiều lần, với mật độ pháo kích dày đặc. Tình trạng thiếu cán bộ trầm trọng đến mức “một ban chỉ huy tiểu đoàn chỉ có hai người”…

Giữa sự khốc liệt ấy, hơi ấm của tình quân dân chính là nguồn sức mạnh vô giá. Ông nhớ lại, đơn vị đóng quân tại nơi mà ranh giới giữa bộ đội và người dân dường như không tồn tại. “Sống là sống nhờ dựa vào dân”, ông nói. Từ lán trại, công sự đến những bữa ăn, tất cả đều mang đậm dấu ấn của tình cảm đồng bào các dân tộc Tày, Nùng. Doanh trại của ông ở ngay cạnh nhà bác Bí thư Đảng ủy xã. Những buổi giao lưu văn nghệ, những lần dự đám cưới theo phong tục địa phương, những mối quan hệ kết nghĩa giữa chi đoàn thanh niên với các tổ chức đoàn thể địa phương đã dệt nên một tấm lưới nghĩa tình bền chặt. Tình quân dân thắm thiết như cá với nước ấy đã trở thành một hậu phương vững chắc, một điểm tựa tinh thần để người lính vững tay súng nơi biên cương…

Từ lửa đạn chiến trường đến ngọn lửa trên bục giảng

Chiến tranh kết thúc cũng là lúc Quân đội và đất nước trong thời kỳ đổi mới cần những bộ óc lý luận sắc bén. Giai đoạn 1981-1985, ông được cử đi làm nghiên cứu sinh tại Học viện Chính trị - Quân sự mang tên V.I Lênin (nay là Đại học tổng hợp quân sự, Bộ Quốc phòng Liên bang Nga), một trong những trung tâm đào tạo lý luận quân sự hàng đầu thế giới.

Trong hành trình quan trọng đó, ông may mắn gặp được một người thầy hướng dẫn lớn tuổi, uyên bác. Vị giáo sư già, người đã là tiến sĩ từ trước khi ông ra đời, đã từng rời bục giảng ra chiến trường trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Ông vừa nghiêm khắc trong học thuật, vừa dành cho cậu học trò Việt Nam một tình cảm ấm áp, chân thành như người cha nuôi. Chính sự dìu dắt tận tình của người thầy lớn và phương pháp luận khoa học được đào tạo bài bản đã tạo nên một sức bật phi thường cho ông sau này.

 Bão lửa của chiến trường và hơi ấm của tình quân dân nơi biên thùy là hai phần ký ức không thể tách rời, đã cùng nhau tôi luyện và hun đúc nên bản lĩnh, khí phách của ông. Ảnh NVCC

Bão lửa của chiến trường và hơi ấm của tình quân dân nơi biên thùy là hai phần ký ức không thể tách rời, đã cùng nhau tôi luyện và hun đúc nên bản lĩnh, khí phách của ông. Ảnh NVCC

Trở về nước, ông nhanh chóng khẳng định được tài năng, trở thành Phó chủ nhiệm Khoa Kinh tế chính trị học Mác – Lênin (Học viện Chính trị) ở tuổi 38, và rồi được bổ nhiệm Phó giám đốc Học viện ở tuổi 47, một trong những Thượng tá hiếm hoi được giao trọng trách lớn lao đó và được thăng quân hàm Đại tá trước niên hạn.

Song song với sự nghiệp giảng dạy, ông cống hiến không mệt mỏi cho mặt trận nghiên cứu khoa học, nơi trí tuệ của ông góp phần giải quyết những vấn đề chiến lược của quốc gia và Quân đội. Tầm vóc của một nhà khoa học đầu ngành được thể hiện qua vai trò thành viên chủ chốt của đề tài cấp Nhà nước “Về định hướng xã hội chủ nghĩa trên những lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội”, phục vụ trực tiếp cho Đại hội Đảng lần thứ IX. Đồng thời, ông cũng là một trong những tác giả chính tham gia biên soạn bộ sách giáo khoa chuẩn quốc gia về Kinh tế Chính trị (năm 1995), đặt nền móng tri thức cho nhiều thế hệ.

Không chỉ dừng lại ở tầm vĩ mô, những nghiên cứu của ông còn đi sâu vào thực tiễn quân đội, với các đề tài cấp Bộ và Nhà nước quan trọng như “Nâng cao chất lượng quản lý giáo dục - đào tạo trong các Học viện, trường Sĩ quan Quân đội đáp ứng yêu cầu mới” hay “Dự báo tiềm lực chính trị - tinh thần của nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân trong điều kiện lịch sử mới”.

Đặc biệt, dấu ấn mang tính lịch sử của ông được thể hiện rõ nét trong công trình cấp Bộ “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang”. Đây là công trình đã cung cấp những luận cứ khoa học sắc bén, góp phần trực tiếp vào việc thiết lập lại chế độ Chính ủy, Chính trị viên trong toàn quân. Tầm vóc của công trình được ông khẳng định bằng một niềm tin sắt đá, rằng nó vượt xa giá trị học thuật đơn thuần, bởi nó chạm đến điều mà ông gọi là “sinh mạng của Quân đội, của đất nước”.

Trong suốt sự nghiệp của mình, Thiếu tướng Vũ Quang Lộc đã hướng dẫn 12 nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án tiến sĩ và khoảng 30 thạc sĩ, trong đó nhiều người sau này đã đảm nhiệm những vị trí quan trọng trong Quân đội và bộ máy nhà nước. Sự nghiệp “trồng người” thầm lặng mà vĩ đại ấy đã được ghi nhận xứng đáng bằng các danh hiệu Nhà giáo Ưu tú (năm 1996) và Nhà giáo Nhân dân (năm 2006).

 Thiếu tướng, PGS, TS, Nhà giáo Nhân dân Vũ Quang Lộc (thứ 5 từ trái sang) chúc mừng nghiên cứu sinh cuối cùng của mình bảo vệ thành công luận án. Ảnh: NVCC

Thiếu tướng, PGS, TS, Nhà giáo Nhân dân Vũ Quang Lộc (thứ 5 từ trái sang) chúc mừng nghiên cứu sinh cuối cùng của mình bảo vệ thành công luận án. Ảnh: NVCC

Nhưng khi được hỏi về động lực lớn nhất cho cả một đời phấn đấu không mệt mỏi, câu trả lời của vị tướng không phải là những vinh quang hay thành tựu. Giọng ông trầm lại, chân thành và sâu lắng, gói trọn cả một triết lý sống được chắt lọc từ những năm tháng hoa lửa: “Động lực lớn nhất để tôi phấn đấu, chính là món nợ với những người đồng đội đã hy sinh. Món nợ đó lớn lắm…”.

“Món nợ” thiêng liêng ấy là khởi nguồn cho tất cả. Nó lý giải vì sao một người lính từ chiến trường lại có thể kiên trì miệt mài hàng chục năm trên mặt trận khoa học. Nó lý giải vì sao những bài giảng của ông không chỉ có chiều sâu lý luận mà còn thấm đẫm hơi thở của thực tiễn.

Và giờ đây, ông gửi gắm niềm tin vào một thế hệ sĩ quan trẻ. Ông căn dặn họ phải không ngừng trau dồi tri thức để theo kịp thời đại, rèn luyện bản lĩnh để đương đầu với thách thức, như ông vẫn nhắn nhủ: “Trước hết, phải thực sự yêu cái nghề của mình…”.

Tình yêu ấy, với Thiếu tướng, PGS, TS, Nhà giáo Nhân dân Vũ Quang Lộc chính là khởi nguồn của mọi lòng trung thành, là sức mạnh để vượt qua mọi gian khó.

Bài và ảnh: YẾN NHI

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/tuong-linh-viet-nam/thieu-tuong-nha-giao-nhan-dan-vu-quang-loc-khi-phach-nguoi-linh-tri-tue-nguoi-thay-841836
Zalo