Thị trường nông sản: Giá gạo xuất khẩu tiếp tục đi ngang
Thị trường lúa gạo trong nước tuần qua khá trầm lắng khi diện tích thu hoạch không nhiều của vụ Thu Đông. Giá gạo Việt Nam xuất khẩu tiếp tục đi ngang trong bối cảnh nhu cầu thị trường yếu.

Sản phẩm gạo xuất khẩu của Công ty TNHH gạo Vinh Phát (An Giang). Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá gạo thơm 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam tuần qua ở mức từ 400–430 USD/tấn, không đổi so với tuần trước đó; gạo 100% tấm dao động ở mức 311 - 315 USD/tấn; gạo Jasmine giá dao động 448 - 452 USD/tấn.
Tại thị trường trong nước, theo Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường, tại Cần Thơ, lúa Jasmine vẫn có giá là 8.400 đồng/kg, tương đương so với tuần trước; lúa IR 5451 là 6.200 đồng/kg; ST25 là 9.400 đồng/kg; OM 18 là 6.600 đồng/kg.
Tại Đồng Tháp, lúa IR 50404 có giá 6.600 đồng/kg, OM 6976 là 7.400 đồng/kg. Tại Vĩnh Long, lúa IR 50404 có giá 6.600 đồng/kg.
Tại An Giang, giá các loại lúa tươi hầu hết vẫn giữ vững so với tuần trước, IR 50404 được thu mua 5.100–5.200 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg; OM 5451 từ 5.200–5.300 đồng/kg, giảm 200 đồng/kg; OM 18 ở mức 5.600 – 5.700 đồng/kg; Đài Thơm 8 từ 5.600 – 5.700 đồng/kg.
Trên thị trường bán lẻ An Giang, giá gạo ổn định: gạo thường 11.000–12.000 đồng/kg; gạo thơm thái 20.000–22.000 đồng/kg; Jasmine 16.000–18.000 đồng/kg; gạo trắng 16.000 đồng/kg, Nàng Hoa 21.000 đồng/kg, Hương Lài 22.000 đồng/kg, thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg, Sóc thường 17.000 đồng/kg, Sóc Thái 20.000 đồng/kg, gạo Nhật 22.000 đồng/kg.
Giá gạo nguyên liệu IR 50404 vẫn ở mức từ 7.600 – 7.700 đồng/kg, gạo thành phẩm IR 504 từ 9.500 – 9.700 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 380 từ 7.200 – 7.300 đồng/kg; gạo thành phẩm OM 380 dao động ở mức 8.800 - 9.000 đồng/kg.
Với mặt hàng phụ phẩm, giá phụ phẩm các loại dao động trong khoảng từ 7.100 – 10.000 đồng/kg. Giá cám khô ở mức 9.000 – 10.000 đồng/kg.
Theo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, tính đến ngày 17/11, các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã xuống giống vụ Thu Đông 621.000 ha, đạt 100,1% so với kế hoạch và đã thu hoạch được 461.000 ha với năng suất đạt 56,99 tạ/ha, sản lượng ước đạt 2,63 triệu tấn. Đối với vụ Mùa, các địa phương đã gieo trồng đủ 175.000 ha theo kế hoạch và đang bước vào giai đoạn thu hoạch. Vụ Đông Xuân 2025–2026 cũng đã được triển khai, với 302.000 ha đã xuống giống trong tổng kế hoạch 1.266.000 ha.
Cũng như Việt Nam, nhu cầu đối với gạo Ấn Độ tiếp tục trầm lắng, dù giá gạo đồ của nước này tăng lên mức cao nhất sáu tuần khi chính phủ bắt đầu mua vào. Tại Ấn Độ, giá gạo đồ 5% tấm được chào bán ở mức 352–360 USD/tấn trong tuần này, tăng từ 344–350 USD/tấn của tuần trước và là mức cao nhất kể từ ngày 2/10. Trong khi đó, giá gạo trắng 5% tấm ở mức 350–355 USD/tấn.
Ông Himanshu Agarwal, Giám đốc điều hành Satyam Balajee – một nhà xuất khẩu gạo lớn – cho biết, nhu cầu xuất khẩu vẫn yếu khi các khách hàng châu Phi và châu Á tìm đến những nguồn cung có giá cạnh tranh hơn. Ông nói thêm rằng khi Chính phủ Ấn Độ bắt đầu thu mua, giá gạo trong nước dự kiến sẽ giữ ở mức cao, làm giảm triển vọng xuất khẩu.
Còn tại Thái Lan, gạo 5% tấm được chào ở mức 340 USD/tấn, tăng nhẹ so với mức 335 USD/tấn của tuần trước (mức thấp nhất 18 năm). Một thương nhân tại Bangkok cho biết người mua chỉ đặt hàng vừa đủ cho nhu cầu trước mắt. Sau khi Ấn Độ công bố sẽ đẩy mạnh xuất khẩu gạo, nhiều khách hàng đang chờ đợi và theo dõi diễn biến giá, khiến thị trường gạo Thái Lan khá trầm lắng.
Trong khi đó, Bangladesh đã phê duyệt mua 50.000 tấn gạo đồ với giá 354,19 USD/tấn thông qua đấu thầu, nhằm hạ nhiệt giá gạo trong nước.
Về thị trường nông sản Mỹ, giá đậu tương Mỹ chốt phiên cuối tuần 21/11 với mức giảm nhẹ, khép lại một tuần giao dịch nhiều biến động. Đà tăng mạnh trước đó – được hỗ trợ bởi thông tin Trung Quốc mua vào đậu tương Mỹ – đã nhanh chóng hạ nhiệt khi thị trường lo ngại liệu nước này có duy trì được kế hoạch như kỳ vọng hay không. Trong khi đó, giá ngô và lúa mì gần như đi ngang.
Bộ Nông nghiệp Mỹ tuần này xác nhận Trung Quốc đã mua hơn 1,5 triệu tấn đậu tương Mỹ. Tuy nhiên, theo giới giao dịch, thị trường đã dự đoán trước các hợp đồng quy mô như vậy nên tác động từ thông tin này không còn quá mạnh.
Chốt phiên này, giá đậu tương giao tháng 1/2026 trên Sàn giao dịch Chicago (CBOT) tăng 2,5 xu Mỹ, lên 11,25 USD/bushel. Mức giá này vẫn thấp hơn đáng kể so với mức đỉnh 11,695 USD/bushel thiết lập ngày 18/11 – mức cao nhất kể từ tháng 6/2024 (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).
Dù đã đẩy mạnh mua vào, lượng đậu tương Trung Quốc đặt mua vẫn còn rất xa mục tiêu 12 triệu tấn mà phía Mỹ cho biết Trung Quốc đã cam kết hoàn tất trước cuối năm. Bên cạnh đó, đậu tương Brazil rẻ hơn tiếp tục tạo sức ép cạnh tranh lên hàng Mỹ.
Một số nhà giao dịch cho rằng Trung Quốc có thể chấp nhận chi phí cao hơn để duy trì tình trạng “đình chiến thương mại” với Mỹ – vốn đạt được từ cuối tháng 10/2025. Tuy vậy, họ dự báo thị trường vẫn giữ tâm lý thận trọng cho đến khi có xác nhận về các hợp đồng lớn hơn.

Cánh đồng lúa mì ở gần Tioga, Bắc Dakota, Mỹ. Ảnh: AFP/TTXVN
Trong khi đó, Bộ Nông nghiệp Mỹ ngày 20/11 cũng cho biết Trung Quốc mua 132.000 tấn lúa mì trắng của Mỹ. Tuy nhiên, thông tin này không đủ giúp giá lúa mì trên CBOT tăng mạnh do nguồn cung toàn cầu vẫn dồi dào.
Cuối phiên 21/11, giá lúa mì giao tháng 3/2026 giảm không đáng kể, 1 xu, xuống 5,39 USD/bushel; trong khi giá ngô giao tháng 3/2026 giảm 0,25 xu, xuống còn 4,375 USD/bushel.
Về thị trường cà phê thế giới,, giá cà phê trên hai sàn giao dịch London (Vương quốc Anh) và New York (Mỹ) đồng loạt giảm mạnh trong phiên giao dịch 22/11, sau thông tin Tổng thống Mỹ Donald Trump ký sắc lệnh gỡ bỏ thuế bổ sung 40% áp lên thực phẩm Brazil, gồm thịt bò, cacao và các loại trái cây.
Giá cà phê robusta trên sàn London giao tháng 11/2025 mất tới 110 USD (tương đương 2,37%), về mức 4.521 USD/tấn, còn giá cà phê robusta giao tháng 1/2026 giảm tới 125 USD (hay 2,69%), xuống còn 4.506 USD/tấn. Còn trên sàn New York, giá cà phê arabica giao tháng 12/2025 mất 6,5 xu (tương đương 1,59%), xuống chỉ còn 400 xu/lb. Và giá cà phê arabica giao tháng 3/2026 giảm tới 7,2 xu (hay 1,90%), xuống mức 369,45 xu/lb (1 lb = 0,4535 kg).
Năm nay, giá bán lẻ cà phê tại Mỹ đã tăng 40% do thuế nhập khẩu và nhiều yếu tố thị trường khác, như sản xuất thiếu hụt do thời tiết. Brazil cung cấp tới 1/3 số cà phê tiêu thụ tại Mỹ - thị trường uống cà phê lớn nhất thế giới.
Ngày 20/11, Nhà Trắng thông báo mở rộng danh mục hàng hóa Brazil được miễn trừ khỏi mức thuế nhập khẩu cao áp dụng từ tháng 8/2025, viện dẫn “những tiến triển ban đầu” trong đàm phán thương mại song phương.
Quyết định này được xem là thắng lợi ngoại giao quan trọng đối với Tổng thống Brazil Luiz Inácio Lula da Silva, đồng thời diễn ra chỉ vài ngày sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump giảm thuế đối ứng với nhiều mặt hàng nông sản toàn cầu không được trồng trong nước.
Thông tin Mỹ gỡ bỏ thuế bổ sung 40% lên một số mặt hàng của Brazil, bao gồm cà phê, đã làm giảm bớt căng thẳng nguồn cung cà phê vào Mỹ, đẩy cà phê arabica giảm mạnh, kéo theo đà đi xuống của cà phê robusta.































