Thí điểm thị trường tài sản mã hóa - Vấn đề với công tác phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố
Ngày 09/9/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 05/2025/NQ-CP về việc triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 09/9/2025; thời gian thực hiện thí điểm là 5 năm.
Thị trường tài sản mã hóa: Thực tiễn sôi động đặt ra thách thức và yêu cầu hoàn thiện pháp lý
Hiện nay, các số liệu về hoạt động phát hành, giao dịch, nắm giữ tài sản ảo tại Việt Nam được nhiều tổ chức nghiên cứu và công bố gồm: các tổ chức nước ngoài như: Chainalysis, Statista, Triple A... hay các nghiên cứu trong nước của Hiệp hội Blockchain và Tài sản số Việt Nam. Theo đó, trong những năm gần đây, hoạt động đầu tư và giao dịch tài sản ảo của người Việt Nam rất sôi động, tập trung tại các sàn giao dịch quốc tế.
Theo số liệu của Chainalysis, dòng tiền từ tài sản mã hóa vào Việt Nam giai đoạn 2022-2024 ước tính hơn 100 tỷ USD, đứng thứ 5 toàn cầu về Chỉ số áp dụng tiền mã hóa toàn cầu 2024, còn theo Báo cáo Chỉ số Toàn cầu về mức độ áp dụng tiền mã hóa của Chainalysis lần thứ sáu (02/9/2025), Việt Nam đứng thứ 4 toàn cầu về tốc độ áp dụng tài sản ảo, sau Ấn Độ, Hoa Kỳ và Pakistan. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia có tỷ lệ sở hữu tài sản mã hóa cao nhất thế giới. Theo Trang CEO World Magazine, trên 20 triệu người Việt Nam (khoảng 21% dân số) sở hữu tiền mã hóa.

Mặc dù các số liệu này chưa được kiểm chứng thống nhất do phương pháp khảo sát và cách thức thu thập dữ liệu khác nhau giữa các tổ chức, song đây là những chỉ báo quan trọng phản ánh quy mô thực tế và tiềm năng của thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam.
Thí điểm thị trường tài sản mã hóa: Tuân thủ yêu cầu phòng, chống rửa tiền và chuẩn mực quốc tế để bảo đảm thị trường minh bạch, an toàn
Trong bối cảnh thị trường tài sản mã hóa có mức rủi ro rửa tiền trung bình cao đến cao (theo Báo cáo Đánh giá nguy cơ rửa tiền quốc gia 2018–2022), tuy thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn thí điểm, việc tuân thủ các quy định về PCRT/TTKB vẫn rất cần thiết để đảm bảo hệ thống tài chính quốc gia an toàn, tránh các rủi ro không mong muốn do: (i) Tài sản mã hóa có rủi ro cao về rửa tiền và là một yếu tố cần được xem xét trong quá trình tổ chức thực hiện; (ii) Việt Nam cần tuân thủ các nguyên tắc quản lý PCRT/TTKB và các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF).
Vì vậy, căn cứ quy định tại Nghị quyết số 05/2025/NQ-CP, các tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản ảo có trách nhiệm thực hiện các biện pháp PCRT/TTKB/ TTPBVKHDHL áp dụng với tổ chức tài chính, bên cạnh đó cũng có một số yêu cầu đặc thù theo chuẩn mực quốc tế, cụ thể:
(1) Tổ chức, cá nhân tham gia thị trường tài sản mã hóa phải tuân thủ quy định pháp luật có liên quan về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biển vũ khí hủy diệt hàng loạt, bảo đảm an ninh, an toàn trên thị trường tài sản mã hóa.
(2) Tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa có các trách nhiệm sau:
- Xây dựng quy trình phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, tài trợ phố biển vũ khí hủy diệt hàng loạt;
- Thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiên, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt áp dụng với tổ chức tài chính, trong đó:
+ Đối với việc nhận biết khách hàng trong trường hợp khách hàng thực hiện giao dịch không thường xuyên: thực hiện khi giá trị giao dịch của khách hàng có giá trị quy đổi tương đương từ 1.000 Đô la Mỹ trở lên;
+ Sử dụng phương pháp phù hợp để theo dõi, giám sát liên tục giao dịch và mối quan hệ kinh doanh của khách hàng với tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa, thường xuyên xác định, cập nhật các dấu hiệu đáng ngờ để kịp thời phát hiện và báo cáo giao dịch đáng ngờ theo quy định;
- Lưu trữ trên hệ thống máy chủ tại Việt Nam tối thiểu 10 năm về lịch sử giao dịch, thông tin về người khởi tạo, người thụ hưởng (tối thiểu tên, địa chỉ, địa chỉ ví), lịch sử địa chỉ thiết bị đăng nhập hoặc địa chỉ giao thức Internet (sau đây gọi là địa chỉ IP) truy cập; thông tin thiết bị truy cập; thông tin mở tài khoản, thông tin tài khoản ngân hàng liên kết của nhà đầu tư.
(3) Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm quy định pháp luật liên quan đến tài sản mã hóa và thị trường tài sản mã hóa, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, bị xử lý theo quy định pháp luật hình sự hoặc xử lý vi phạm hành chính.
(4) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì thu thập, xử lý và phân tích, trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin theo quy định tại các Điều 41, 42, 43 Luật Phòng, chống rửa tiền.
Trước đó, ngày 14/6/2025, Quốc hội Việt Nam đã chính thức thông qua Luật số 71/2025/QH15, Luật Công nghiệp công nghệ số, văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên điều chỉnh toàn diện lĩnh vực công nghệ số và là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng khuôn khổ quản lý thị trường tài sản số tại Việt Nam. Trong đó, Chương V của Luật Công nghiệp công nghệ số quy định về tài sản số đã quy định cụ thể về các khái niệm tài sản số (Điều 46), phân loại tài sản số (Điều 47), quản lý tài sản số (Điều 48), trong đó bao gồm biện pháp bảo đảm an toàn, an ninh mạng; phòng, chống rửa tiền; phòng, chống tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa là bước đi quan trọng, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Việt Nam hiện nay, vừa để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, khuyến nghị quốc tế, vừa để kiểm chứng mô hình quản lý phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Việc triển khai nghĩa vụ phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt được coi là nền tảng quan trọng để thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam phát triển minh bạch và bền vững.