Thế hệ công dân trong kỷ nguyên mới
TS Giản Tư Trung đề xuất vun bồi nền tảng quốc tính để định hình thế hệ công dân trách nhiệm, tự do và ưu tú trong kỷ nguyên vươn mình.

“Phát triển toàn diện con người Việt Nam về đạo đức, trí tuệ, ý thức dân tộc, trách nhiệm công dân, năng lực sáng tạo, thẩm mỹ, thể lực, kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp” là định hướng được nêu rõ trong phần V Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.
Chia sẻ với Tri Thức - Znews, TS Giản Tư Trung, một nhà giáo dục, người gắn bó với sự học khai phóng, cho rằng để hiện thực hóa tầm nhìn này, cần mô hình hóa khái niệm “con người toàn diện” bằng một bộ năng lực và giá trị có tính hệ thống để có thể dễ đi vào cuộc sống.
Ba năng lực không thể thiếu của một công dân
- Trong Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội Đảng XIV nêu rõ mục tiêu “phát triển toàn diện con người” với 9 tiêu chí, bao gồm: đạo đức, trí tuệ, ý thức dân tộc, trách nhiệm công dân, năng lực sáng tạo, thẩm mỹ, thể lực, kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp. Ông đánh giá như thế nào về tiêu chí phát triển toàn diện này?
Trước hết, tôi thấy dự thảo văn kiện kỳ này có nhiều điểm mới và đột phá so với các nghị quyết trước đây. Dự thảo thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến vấn đề phát triển con người, vốn luôn là nền tảng cho sự phát triển bền vững của bất kỳ quốc gia nào.
Khái niệm “con người toàn diện” có thể tiếp cận từ nhiều góc độ. Với tôi, đó là sự phát triển đầy đủ cả thân-tâm-trí-thần, cả đức-trí-thể-mỹ, cả chân-thiện-mỹ, cả khoa học và nghệ thuật,...
Do đó, trong hơn hai thập kỷ gắn bó với giáo dục khai phóng, tôi đã đề xuất và triển khai một mô hình giáo dục bao quát gồm ba năng lực cốt lõi: Năng lực văn hóa (để làm người), năng lực công dân (để làm dân) và năng lực chuyên môn (để làm nghề).
Trong đó năng lực làm người là gốc rễ, có tính bao trùm và chi phối mọi năng lực khác. Bởi lẽ, làm việc cũng là làm người, làm dân cũng là làm người. Con người mình như thế nào thì mình sẽ làm dân và làm nghề như thế đó. Nếu mình là người đàng hoàng tử tế thì cũng sẽ làm dân và làm nghề một cách đàng hoàng tử tế.

Ông Giản Tư Trung tốt nghiệp Tiến sĩ Giáo dục của Học viện Giáo dục Quốc gia Singapore và tốt nghiệp Tiến sĩ Giáo dục của Đại học London (UCL). Ảnh: UC.
Theo tôi, mô hình ba năng lực này cũng chính là 9 khía cạnh mà Dự thảo nêu ra. Chẳng hạn, đạo đức, kỹ năng sống, trí tuệ, sáng tạo, thẩm mỹ thì thuộc về năng lực văn hóa; ý thức dân tộc và trách nhiệm công dân thì nằm trong năng lực công dân; còn kỹ năng nghề nghiệp, trí tuệ, sáng tạo, thẩm mỹ thì nằm trong năng lực chuyên môn.
Đích đến của giáo dục khai phóng là giúp người học phát triển đồng thời ba năng lực đó để trở thành một con người tự do, công dân trách nhiệm và chuyên gia ưu tú. Chuyên gia ưu tú ở đây nghĩa là người luôn theo đuổi sự ưu tú trong bất kỳ công việc nào mình đảm nhận. Dù làm nghề gì, ví dụ nghề quét rác, thì cũng phải nỗ lực trở thành một người quét rác ưu tú.
- Vậy làm sao để phát triển 3 năng lực văn hóa, công dân và chuyên môn?
Để nuôi dưỡng ba năng lực này, theo tôi, có một vài điều cần lưu ý:
Trước hết, cả người dạy và người học đều cần tin vào thực học, thực làm, và tin rằng mỗi người đều có khả năng “tự lực khai phóng” để khai mở tâm trí và giải phóng tiềm năng của chính mình.
Đồng thời làm rõ làm người là làm gì, làm dân là làm gì và làm nghề là làm gì. Hay chính xác hơn là làm rõ “đạo làm người, đạo làm dân và đạo làm nghề”, từ đó mới xác định được nội dung học và cách thực học để có thể “hành đạo”.
Thứ hai, với các giáo viên, tôi thường chia sẻ phương châm sư phạm: “Dạy là làm cho sự học được diễn ra; Dạy chính là giúp người khác thực học”, chứ dạy không chỉ là trao truyền kiến thức, hay ban phát trí tuệ, hay ở vị thế cao hơn người học.
Các quốc gia có nền giáo dục tiên tiến đều dành sự quan tâm lớn đến việc mô hình hóa “chân dung con người”, để hệ thống giáo dục có thể hướng đến một mục tiêu rõ ràng và nhất quán.
TS Giản Tư Trung
Tôi nghĩ một trong những công việc thách thức nhất của mọi nhà giáo ngày nay không chỉ là giúp người học được khai tâm, mà còn khơi dậy được lòng hiếu tri, khát khao học tập suốt đời của con trẻ. Chẳng hạn, với một thầy cô dạy sử thì điều khó nhất không phải là chia sẻ kiến thức lịch sử cho học trò hay chỉ cho học trò cách học sử, mà là làm cho học trò hứng thú với môn sử, mong muốn được tìm tòi và khám khá lịch sử, dù trước đó có thể rất không thích môn học này.
Tôi cho rằng đối với giáo dục phổ thông thì “ngôn giáo” (giáo dục bằng lời nói) là cần thiết, nhưng có lẽ không có phương pháp sư phạm nào hiệu quả hơn và lay động hơn là “thân giáo” (Teaching by Being), tức là, thầy cô phải chính là những gì mình dạy, và cách sống và đời sống của cha mẹ là bài học vĩ đại nhất dành cho con.
Thứ ba, giáo dục cần giúp mỗi người nhận ra một điều quan trọng: “Ta là sản phẩm của chính mình; Mỗi cuộc đời là một tác phẩm mà chính mình là tác giả”. Khi hiểu vậy, con người sẽ dần biết cách lãnh đạo bản thân, làm chủ cuộc sống và sáng tạo số phận.
Thứ tư, tôi tin rằng có hai loại giáo dục, một là giáo dục do người khác trao cho mình (thường chỉ chiếm một phần nhỏ dù người trao là ai), và hai là giáo dục do mình tự tạo ra, hay còn gọi là giáo dục tự thân. Giáo dục tự thân là hành trình suốt đời và là con đường giáo dục vĩ đại nhất mà tôi thường gọi là “tự lực khai phóng”.
Thứ năm, một nền giáo dục nhân bản thì không phải là đặt người dạy hay người học ở trung tâm, mà là lấy con người làm trung tâm (bất kể đó là người học, người dạy, người quản lý hay nhân viên). Cốt lõi của triết lý này là lấy độc lập và tự do, danh dự và phẩm giá, thành công và hạnh phúc của con người làm nền tảng cho mọi hoạt động và lựa chọn.
- Ở các quốc gia khác, chân dung năng lực công dân thường được mô tả ra sao, thưa ông?
Chúng ta có thể tham khảo góc nhìn về chân dung năng lực công dân ở các quốc gia khác. Chẳng hạn, trong cuốn sách Sư phạm Khai phóng, tôi có tổng hợp mô hình giáo dục của một số quốc gia như Anh, Mỹ, Úc, Phần Lan, Nhật Bản và Singapore. Mỗi nước có cách xác định “chân dung con người” khác nhau.

Mô hình Giáo dục Khai phóng mà TS Giản Tư Trung đề xuất trong tác phẩm Sư phạm Khai phóng. Ảnh: NVCC.
Ví dụ, ở Phần Lan có một mô hình phát triển con người công dân (human-being & citizen). Họ xem năng lực quan trọng trước nhất là học cách nghĩ và học cách học (learn how to think & learn how to learn) rồi mới nói về những thứ khác như chăm sóc bản thân, người khác và quản trị cuộc sống, hoạt động hàng ngày, có những năng lực liên văn hóa…
Còn với Singapore, đích đến của giáo dục phổ thông của họ là hướng tới chân dung một con người toàn diện gồm 4 yếu tố quan trọng nhất gồm: con người tự tin (confident person), người học tự chủ (self-directed learner), công dân có trách nhiệm (concern citizen), và người đóng góp tích cực cho xã hội (active contributor).
Nhìn chung, các quốc gia có nền giáo dục tiên tiến đều dành sự quan tâm lớn đến việc mô hình hóa “chân dung con người”, để hệ thống giáo dục có thể hướng đến một mục tiêu rõ ràng và nhất quán.
Khai mở nhân tính, vun bồi quốc tính và phát triển cá tính
- Đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên vươn mình, ông có đề xuất gì về việc phát triển con người để đáp ứng nhu cầu của thời đại?
Bất kể là kỷ nguyên nào thì cũng cần phát triển con người với đầy đủ 3 năng lực cốt lõi nói trên. Trong đó, riêng khía cạnh năng lực văn hóa thì tôi thường nhắc đến là phải làm sao để khai mở nhân tính, vun bồi quốc tính và phát triển cá tính, vì có như vậy thì chúng ta mới được những con người rất nhân bản, rất dân tộc mà cũng rất chính mình.
Trong con người văn hóa có ba lớp là nhân tính, quốc tính và cá tính. Cá tính là thứ bên ngoài mà người ta nhìn thấy được. Cá tính được hình thành dựa trên nền tảng của nhân tính và được vun bồi bởi quốc tính. Nhân tính là phần lõi và phần gốc cần phải khai mở, là điều quan trọng nhất.
Trong sách “Đúng việc - Một góc nhìn về câu chuyện khai minh”, tôi đặt câu hỏi: “Con người khác gì với muông thú, cỏ cây và máy móc?”. Đó chính là “nhân tính”, hay còn gọi là “tính người”, những đặc tính chỉ có giống người mới có. Trong kỷ nguyên này, AI càng ngày càng giống con người và càng ngày càng vượt xa con người, nhưng rốt cuộc AI vẫn không phải người.
Còn cá tính thì không hẳn là khác người, bởi trước khi khác người thì phải giống người cái đã, nếu cá tính không dựa trên nền tảng nhân tính thì chỉ là quái tính. Cho nên chúng ta không cần cố ý xây dựng cá tính khác biệt, vì chỉ cần không ngừng khai mở nhân tính và vun bồi quốc tính, tự nhiên cá tính sẽ hình thành.

Sách Đúng việc - Một góc nhìn về câu chuyện khai minh của TS Giản Tư Trung,
- Ông bàn nhiều về nhân tính và cá tính, vậy ông có thể nói rõ hơn về "quốc tính"? Theo ông, nên làm gì để vun bồi ý thức dân tộc, trách nhiệm công dân?
Dựa trên nhiều khảo cứu về giáo dục, văn hóa và lịch sử, với góc nhìn từ một người làm giáo dục, tôi có đề xuất năm quốc tính mà người Việt chúng ta nên có để đất nước vững mạnh bước vào kỷ nguyên mới, bao gồm: Khai minh, Nhân bản, Ái quốc, Bền chí, Dung hợp. Đây cũng chỉ là góc nhìn tham khảo từ một người làm giáo dục.
Trước hết là Khai minh. Khai là mở, minh là sáng, khai minh tức là mở con người tăm tối của mình ra để đưa ánh sáng vào và làm cho mình sáng ra. Chúng ta làm gì cũng cần sự khai minh vì có như thế mới minh định được đúng-sai, phải-trái, chân-giả, thiện-ác, chính-tà.
Thứ hai là Nhân bản. Nhân là người, bản là gốc, nhân bản là lấy con người làm gốc (human-centric), lấy tự do và phẩm giá của con người làm gốc. Nhân bản với cả chính mình và người khác. Nếu là quan chức thì lấy người dân làm trọng, nếu kinh doanh thì lấy khách hàng làm trọng, nếu là lãnh đạo thì lấy nhân viên làm trọng, nếu là thầy giáo thì lấy học sinh làm trọng… Và nhân bản cần dựa trên nền tảng của khai minh thì mới có nhân bản đúng nghĩa, vì nếu chưa khai minh thì có khi đang làm điều phi nhân mà mình cũng không nhận ra.
Chúng ta phải nghĩ về xã hội tương lai mà chúng ta mong muốn trước, rồi mới đặt mục tiêu cụ thể và xây dựng chính sách giáo dục và phát triển công dân cho xã hội tương lai đó.
TS Giản Tư Trung
Thứ ba là Ái quốc, tức là yêu nước. Ái quốc cần phải dựa trên nền tảng Khai minh và Nhân bản.
Thứ tư là Bền chí. Có chí đã khó mà bền chí còn khó hơn. Tại sao có những người đã giàu hàng đầu thế giới mà họ vẫn làm việc ngày đêm đến hết đời? Vì họ làm việc không phải chỉ vì tiền, mà còn vì đức tin, lẽ sống, lý tưởng sống và giá trị sống cả đời của họ.
Cuối cùng là Dung hợp. Trong thời đại quá nhiều cực đoan và cuồng tín, bội thực thông tin và tràn ngập trường phái, nếu chúng ta không có khả năng tích hợp và dung hòa các luồng tư tưởng thì khó có thể sống hạnh phúc và làm thành công. Bởi lẽ, không ai có thể sống một mình, chúng ta sống cùng với đồng loại, đồng bào, đồng nghiệp, đồng hương, đồng môn… của mình. Dung hợp giúp ta không chỉ sống hạnh phúc với mình, mà còn sống hạnh phúc với người và với trời (với tự nhiên và vũ trụ).
- Tại sao ông cho rằng xác định quốc tính là quan trọng vào thời điểm này?
Khi đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, với khát vọng vươn mình, thì để hiện thực hóa khát vọng đó, bên cạnh kinh tế, công nghệ, khoa học, chúng ta cần có một hệ giá trị văn hóa mới, phù hợp với yêu cầu của thời đại.
Quốc tính hiểu đơn giản là những giá trị chung của cộng đồng trong từng giai đoạn của đất nước. Trong kỷ nguyên vươn mình, người dân cũng cần được nuôi dưỡng những phẩm chất mới cho sự vươn mình.
Để hình thành văn hóa thì phải dựa vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng là giáo dục.

Sách Sư phạm khai phóng: Thế giới, Việt Nam & Tôi của TS Giản Tư Trung. Ảnh: IRED.
Trong ngày đại lễ 2/9 vừa qua, nhà lãnh đạo của đất nước đã khẳng định: “Việt Nam hùng cường là lời thề danh dự trước lịch sử”. Để hiện thực hóa khát vọng này thì trước hết phải xác định được chân dung và thước đo của sự “hùng cường”, hùng cường về mọi mặt (kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học, giáo dục, dân chủ, văn minh…), chứ không chỉ là về kinh tế. Tiếp đó, làm rõ chân dung những con người như thế nào sẽ tạo ra sự hùng cường này. Do đó, việc phát triển toàn diện con người Việt Nam là rất cần thiết. Và tôi hy vọng giáo dục sẽ góp phần quan trọng vào việc hiện thực hóa khát vọng cháy bỏng này của dân tộc.






























