Tháo gỡ điểm nghẽn, khó khăn trong quản lý hóa chất
Ngành công nghiệp hóa chất, với vai trò nền tảng đóng góp khoảng 2-5% GDP toàn ngành công nghiệp, đang đối mặt với nhiều điểm nghẽn và khó khăn trong quản lý. Theo các chuyên gia, việc tháo gỡ những vướng mắc này không chỉ cần thiết để thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành, mà còn góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế công nghiệp Việt Nam.

Ngành hóa chất là ngành công nghiệp nền tảng, đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp. Ảnh minh họa
Vẫn còn những băn khoăn…
Chia sẻ tại Hội thảo Góp ý đối với Dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi) mới diễn ra, ông Nguyễn Văn An - Ủy viên là đại biểu Quốc hội chuyên trách tại Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội - cho biết, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, các đại biểu Quốc hội đã thảo luận tại Tổ và Hội trường về dự án Luật Hóa chất (sửa đổi). Theo đó, nhiều ý kiến đánh giá cao hồ sơ dự án Luật, nhất trí với nhiều nội dung được thể hiện trong Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Báo cáo thẩm tra đã thể hiện những quan điểm rõ ràng, thẳng thắn, đưa ra được nhiều vấn đề để Chính phủ tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện dự án Luật.
Về sự phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật, có ý kiến đề nghị nghiên cứu, tiếp tục rà soát, thể chế hóa việc xây dựng và phát triển lộ trình cấm sử dụng các loại hóa chất độc hại gây ô nhiễm nguồn nước tại Kết luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị, Kết luận số 81-KL/TW về đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng công bằng, qua đó nhằm tăng cường quản lý tài nguyên môi trường, chuyển đổi sử dụng năng lượng, nhất là năng lượng tái tạo trong quá trình sản xuất và sử dụng hóa chất.
Trong khuôn khổ Hội thảo, các đại biểu, doanh nghiệp, chuyên gia tập trung đóng góp ý kiến vào các nội dung như: khoảng cách an toàn đối với địa điểm xây dựng công trình có hoạt động hóa chất; quản lý hóa chất độc hại; phân loại hóa chất...
Đề cập về khoảng cách an toàn đối với địa điểm xây dựng công trình có hoạt động hóa chất, bà Nguyễn Thị Mai - Phó Trưởng Ban Kỹ thuật, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét, bổ sung để làm rõ quy định khoảng cách an toàn đối với địa điểm xây dựng công trình có hoạt động hóa chất của các dự án hóa chất mới và các dự án hóa chất đang hoạt động.
Dẫn chứng từ thực tiễn, bà Mai cho biết theo quá trình phát triển và đô thị hóa, xung quanh nhiều nhà máy, dân cư đã ở gần sát đến tường bao doanh nghiệp và hiện có trường hợp đã được cấp chính quyền cấp giấy chứng nhận sử dụng đất để định cư (do trước đây trong thời gian dài không có quy định về cách an toàn).
Với quy định về khoảng cách an toàn như nêu tại Dự thảo Luật, nhiều nhà máy đang hoạt động có nguy cơ vi phạm khoảng cách an toàn. Phân tích rõ hơn, bà Mai nêu ví dụ từ việc vi phạm do chủ thể khác gây ra, dưới sức ép của dư luận xã hội, của dân cư, nhà máy sản xuất hóa chất phải di dời. Việc xây dựng một dự án sản xuất hóa chất cần qua nhiều bước xem xét thẩm định của cơ quan chức năng, nguồn vốn đầu tư rất lớn và thời gian dài, bởi vậy, việc di dời nhà máy sản xuất sẽ gây thiệt hại cho doanh nghiệp, cho Nhà nước và xã hội.
Với thực tế nêu trên, đại diện Tập đoàn Hóa chất Việt Nam đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo xem xét, bổ sung quy định cụ thể về khoảng cách an toàn đối với dự án mới và dự án đang hoạt động để thuận lợi cho doanh nghiệp và địa phương khi triển khai thực hiện. Đối với dự án đang hoạt động được xây dựng trước khu dân cư cần có quy định cụ thể để chính quyền có chính sách di dời người dân đến vùng an toàn, trả lại hành lang an toàn.
Một vấn đề nữa cũng được bà Mai góp ý liên quan đến quy định về giấy phép. Tại Dự thảo Luật quy định giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất hóa chất có điều kiện có thời hạn 5 năm kể từ ngày cấp, theo bà Mai, quy định này cần được xem xét thêm. Bởi vì, hóa chất có điều kiện được kiểm tra, kiểm soát rất nghiêm ngặt để được cấp phép sản xuất. Cùng với đó, hàng năm, cơ quan quản lý nhà nước đều có chương trình giám sát gián tiếp và trực tiếp về hoạt động hóa chất tại các doanh nghiệp thông qua báo cáo định kỳ của doanh nghiệp và giám sát trực tiếp tại doanh nghiệp.
Mặt khác, tại Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định về thời hạn của giấy phép môi trường như sau: Đối với dự án đầu tư nhóm 1 (dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao), thời hạn của giấy phép môi trường là 7 năm. Đối với trường hợp còn lại, thời hạn của giấy phép môi trường là 10 năm.
Từ những lý do trên, bà Mai kiến nghị cơ quan soạn thảo xem xét, chỉnh sửa, bổ sung thời hạn của “Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất hóa chất có điều kiện là 10 năm kế từ ngày cấp”.
Liên quan đến vấn đề thời hạn của giấy phép, ông Nguyễn Hữu Dũng - Phó Chủ tịch Hội Các phòng thử nghiệm Việt Nam bày tỏ băn khoăn chưa rõ cơ quan quản lý nhà nước phải xem xét việc cấp lại nhằm mục đích gì? Bởi theo ông Dũng, nếu để đảm bảo cơ sở duy trì điều kiện sản xuất theo quy định thì có thể áp dụng cơ chế thanh tra, kiểm tra hoặc thừa nhận kết quả đánh giá phù hợp ví dụ như chứng chỉ ISO 9001...
“Nếu quy định giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất có hiệu lực như giấy phép đầu tư 50 năm thì có ảnh hưởng gì đến quản lý không?” – ông Dũng đặt câu hỏi, đồng thời kiến nghị cơ quan soạn thảo nên xem xét kéo dài thời hạn giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất hóa chất.

Hội thảo Góp ý đối với Dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi) do Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cùng Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp tổ chức, ngày 14/3. Ảnh: D.T
Cần cân nhắc một số quy định trong quản lý hóa chất
Đóng góp ý kiến về việc quản lý hóa chất, bà Đào Thị Thu Huyền - Phó Giám đốc Đối ngoại, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Canon Việt Nam - cho rằng, hiện nay, tất cả các quy định chỉ yêu cầu phải kiểm soát hóa chất có điều kiện và hóa chất cần kiểm soát đặc biệt. Đồng thời, các quốc gia trên thế giới cũng chỉ quản lý các hóa chất cần kiểm soát hoặc hóa chất cần kiểm soát đặc biệt, hóa chất độc hại. Việc phải kiểm soát cả các hóa chất không thuộc 2 loại hóa chất trên như quy định tại Dự thảo Luật là không có căn cứ và không đúng với nguyên tắc, thông lệ quốc tế.
Chẳng hạn như, tại Thái Lan, chỉ hóa chất nằm trong danh mục hóa chất cần kiểm soát và hóa chất cần kiểm soát đặc biệt thì khi nhập khẩu mới phải khai báo. Hay tại Nhật Bản, các hóa chất nằm trong danh mục MEIT (Manufactured Chemical Substances in Japan) đã được thương mại hóa và có mã MEIT thì không cần khai báo khi nhập khẩu. Các hóa chất mới nằm ngoài danh mục MEIT sẽ phải thông báo trước khi sản xuất hay nhập khẩu. Tại Hàn Quốc, doanh nghiệp cũng chỉ phải khai báo hóa chất độc hại thuộc danh mục khi nhập khẩu…
Đối với Việt Nam, bà Huyền cho biết, trong các quy định của Việt Nam đã quy định rất chặt chẽ việc quản lý hóa chất theo từng công đoạn như vận chuyển, lưu trữ, sử dụng và xử lý. Do đó, bà Huyền kiến nghị cơ quan soạn thảo nên cân nhắc, xem xét chỉnh sửa quy định trên.
Cũng góp ý đối với vấn đề quản lý hóa chất, ông Nguyễn Hữu Dũng chia sẻ thêm, một phòng thí nghiệm đều sử dụng rất nhiều hóa chất có thể lên tới 1 vài nghìn hóa chất, bao gồm cả chất độc và chất cấm vì không có chất chuẩn độc, chất chuẩn cấm thì làm sao phân tích được chất độc, chất cấm. Tuy nhiên, các phòng thí nghiệm chỉ lưu trữ một khối lượng không lớn. Mỗi loại hóa chất chỉ từ 1 gram đến 1000 gram và đều là loại có độ tinh khiết cao, giá trị cao hơn hóa chất bình thường.
Do vậy, Dự thảo Luật cần xác định rõ việc quản lý hóa chất thí nghiệm để giúp phát triển sản xuất hàng hóa trong nước nói chung và phát triển sản xuất hóa chất nói riêng (sản xuất chất mới) được thuận lợi. Theo đó, ông Dũng kiến nghị bổ sung 1 quy định về quản lý hóa chất thí nghiệm bao gồm điều chế, vận chuyển, bảo quản và sử dụng hóa chất thí nghiệm.
Liên quan đến việc quản lý hóa chất, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Tạ Đình Thi nêu quan điểm cơ quan chủ trì soạn thảo Dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi) cần quan tâm tháo gỡ điểm nghẽn, khó khăn trong quản lý hóa chất khi áp dụng trong tình hình mới hiện nay. Theo đó, cần tiếp tục thể chế hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong quản lý hóa chất, chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm các loại hóa chất; phòng tránh sự cố hóa chất, ảnh hưởng của hóa chất đến môi trường... Cùng với đó là gắn với giảm thủ tục hành chính; phân cấp phân quyền trong quản lý hóa chất, trong bối cảnh thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”./.