Thách thức từ 'luật chơi xanh' ngành hàng hải

Ngành hàng hải đối diện với bài toán chuyển đổi xanh để đáp ứng yêu cầu của đối tác cũng như quy định pháp lý của thị trường quốc tế.

Ngành hàng hải đứng trước bài toán xanh hóa. Ảnh: Hoàng Anh

Ngành hàng hải đứng trước bài toán xanh hóa. Ảnh: Hoàng Anh

Từng bước triển khai hệ thống điện bờ là một trong những giải pháp được Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn (thuộc Bộ Quốc phòng) thực hiện nhằm xanh hóa hệ thống cảng biển của doanh nghiệp này.

Bởi lẽ, điện bờ là yêu cầu của nhiều hãng tàu lớn trên thế giới đến năm 2030. Với hệ thống điện bờ, việc cung ứng năng lượng cho tàu cập bến để xếp dỡ, chiếu sáng, làm mát sẽ do cảng biến đảm nhiệm, tránh tàu phải chạy máy phụ bằng dầu diesel, vừa thải carbon, ô nhiễm tiếng ồn, vừa tốn chi phí nhiên liệu.

Cấp thiết xanh hóa

Việc nhiều hãng tàu biển yêu cầu đến năm 2030 các cảng phải có hệ thống điện bờ phản ánh nhu cầu xanh hóa của ngành hàng hải. Bởi lẽ, chiếm 80% tổng khối lượng hàng hóa lưu chuyển toàn cầu, hàng hải là mắt xích không thể thiếu của đa số doanh nghiệp đa quốc gia, những doanh nghiệp đang đứng trước bài toán xanh hóa, khử carbon trong chuỗi cung ứng.

Mục tiêu của Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO) là giảm 20 – 30% khí thải trong ngành vận tải biển đến năm 2030 đã phần nào thể hiện “luật chơi xanh” của ngành hàng hải toàn cầu. Sau năm 2030, IMO sẽ tiếp tục cập nhật mục tiêu, đi kèm với đó là những “luật chơi” nghiêm ngặt, khắt khe hơn nhiều.

Một số quốc gia như Hoa Kỳ, Singapore, Trung Quốc thậm chí đã liên kết và thiết lập “vành đai hàng hải xanh” để kết nối các hãng tàu với các cảng biển đạt tiêu chí bền vững. Điều này có nghĩa, nếu không thuận theo xu thế, ngành hàng hải Việt Nam sẽ đánh mất khách hàng.

Là một thành viên của IMO, từ năm 2022, Việt Nam đã ban hành tiêu chí cảng xanh, với nhiều khía cạnh nhằm hướng dẫn doanh nghiệp triển khai giải pháp bền vững tại cảng biển. Một số tiêu chuẩn pháp lý cũng đang được nghiên cứu và ban hành trong thời gian tới để giảm nhẹ cường độ phát thải của ngành vận tải biển.

Ông Trương Vĩnh Khang, Trưởng bộ phận phát triển bền vững, Viện tiêu chuẩn Anh quốc (BSI) tại Việt Nam, cho biết, chuyển đổi xanh vừa là yêu cầu mang tính ràng buộc pháp lý, vừa là bài toán “sống còn” của doanh nghiệp hàng hải nhưng đồng thời cũng mở ra cơ hội mới.

Đó là cơ hội đạt được lợi ích về kinh tế thông qua tiết giảm chi phí, đáp ứng nhu cầu khách hàng, lợi ích về xã hội, đồng thời nắm bắt được những xu thế công nghệ mới của ngành hàng hải.

Đơn cử như tại Tân cảng Sài Gòn, việc chuyển đổi từ sử dụng dầu diesel sang điện tại các cảng biển đã giúp tiết giảm 1/3 chi phí vận hành hàng năm, từ khoảng 200 tỷ đồng xuống còn khoảng 66 tỷ đồng.

Lộ trình nào cho doanh nghiệp hàng hải

Việc xây dựng hệ thống điện bờ nhằm đáp ứng yêu cầu của các hãng tàu lớn không đơn giản đối với các doanh nghiệp vận hành cảng biển bởi những đòi hỏi khắt khe, chẳng hạn như phải có bộ biến tần do điện áp trên các loại tàu thủy có thể khác với điện áp trên lưới điện, hay hệ thống dây cáp đạt chuẩn.

Thực tế, không chỉ lắp đặt hệ thống điện bờ, nhiều giải pháp khác hướng đến xanh hóa ngành hàng hải cũng không hề đơn giản. Như tính toán của Tân cảng Sài Gòn, riêng hai dự án bến 7 và 8 của cảng Lạch Huyện có thể đội vốn gấp ba lần, lên mức 40 nghìn tỷ đồng nếu muốn xanh và tự động hóa ở mức cao nhất.

Điều này cho thấy việc chuyển đổi xanh ngành công nghiệp lâu đời như hàng hải là rất lớn, chưa kể đến những khó khăn về đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như kiểm đếm, đo đạc các dữ liệu liên quan.

Trong bối cảnh doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn về nguồn vốn cũng như kiến thức, kinh nghiệm chuyển đổi xanh ngành hàng hải, ông Khang khuyến nghị cần xây dựng một kế hoạch bài bản để chuyển đổi từng bước.

Trong đó, cần xác định những chiến lược cụ thể để cắt giảm khí thải carbon ở từng khâu. Chẳng hạn, đối với cảng biển, bên cạnh giải pháp điện bờ, còn có những giải pháp như áp dụng hệ thống năng lượng mặt trời, ứng dụng số hóa, trí tuệ nhân tạo để tối ưu hóa hoạt động và giảm chi phí, sử dụng nhiên liệu thay thế hoặc dùng xe điện thay cho xe xăng.

Hoặc đối với tàu biển, ngoài việc sử dụng nhiên liệu thay thế, có thể tính đến giải pháp công nghệ động cơ hybrid (tức là dùng kết hợp xăng và điện), cải tiến hiệu quả sử dụng năng lượng thông qua thiết kế thân, vỏ tàu, chân vịt, hệ thống lái, sử dụng công nghệ kiểm soát khí thải.

Bên cạnh các giải pháp kỹ thuật, khâu quản trị cũng đặc biệt quan trọng. Một mô hình quản trị vận hành thông suốt, minh bạch sẽ giúp tối ưu hoạt động của cảng biển và tàu biển, qua đó tiết kiệm năng lượng, tài nguyên và cắt giảm khí thải.

Tùy thuộc vào điều kiện thực tế, mỗi doanh nghiệp có thể triển khai một hoặc nhiều giải pháp theo lộ trình phù hợp, qua đó vừa cân đối chi phí, vừa từng bước xanh hóa.

Các giải pháp đem lại hiệu quả ngay với chi phí không quá cao hoặc có khả năng ngay lập tức giúp giảm chi phí có thể được doanh nghiệp ưu tiên để đảm bảo chiến lược xanh hóa được tiến hành thông suốt.

Mặt khác, ngành hàng hải là lĩnh vực gắn bó mật thiết với chuỗi cung ứng, kết nối liên tục với nhiều lĩnh vực vận tải và ngành kinh tế khác. Do đó, xanh hóa hàng hải không thể thiếu những cơ chế hợp tác, chia sẻ thông tin, liên kết về công nghệ, dữ liệu và nhân lực trong chuỗi cung ứng.

Phạm Sơn

Nguồn Nhà Quản Trị: https://theleader.vn/thach-thuc-xanh-hoa-nganh-hang-hai-d39374.html
Zalo