Thác ghềnh muôn nỗi sơn khê

Từ bé tôi đã thuộc lòng câu ru của mẹ rằng: 'Cái cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non/ Nàng về nuôi cái cùng con/ Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng'. Nghe chả hiểu gì nhưng tôi vẫn chìm trong giấc ngủ với những giọt nước mắt ngày ấy. Sau này, có dịp lên tới cửa khẩu Lý Vạn (Hạ Lang-Cao Bằng) tôi mới hiểu chuyện đi 'trẩy nước non Cao Bằng' gian khổ đến thế nào. Lần này, chúng tôi khởi hành từ cuối dòng sông Quây Sơn đi ngược lên Bản Giốc.

Nước non tô điểm nên xinh

Mùa Xuân hồ hởi trôi trên dòng sông thẳng tắp nơi biên giới hai nước Việt-Trung. Những khóm hoa chuối đỏ chót khoe sắc nổi bật trong những bãi lau trắng muốt. Dòng sông Quây Sơn chảy từ Trung Quốc sang nước ta (dài 50 cây số). Khởi nguồn từ xã Ngọc Côn (huyện Trùng Khánh) rồi qua mấy xã, cuối cùng dòng sông Quây Sơn lại quay về Trung Quốc. Cung đoạn sông bắt đầu chảy qua nước ta khá dài và khúc khuỷu theo chân những dãy núi đá vôi. Nước trong xanh uốn lượn qua những vách núi cùng bãi đá và cồn cát nhấp nhô. Dọc đường cùng những phụ lưu suối nhỏ chảy vào làm cho dòng nước Quây Sơn chảy xiết về phía đông nam. Nhưng có lẽ địa hình hiểm trở phức tạp ấy lại tạo nên những cảnh quan kỳ thú bất ngờ.

Đặc biệt, cánh rừng hạt dẻ luôn khoe mùa hoa trắng như sữa bên dòng sông cuồn cuộn. Thấp thoáng những thiếu nữ áo chàm chèo thuyền bên sông với chiếc nón rộng vành nghiêng theo làn sóng. Hương hạt dẻ thơm phức từ trái bếp trên nương bay về: “Ngọt bùi hạt dẻ Cao Bằng/ Thơm đôi môi ấy phải chăng nhớ mình/ Nước non tô điểm nên xinh/ Cong làn mi chớp mắt tình bén duyên” (“Bóng ai trên dòng Quây Sơn” - thơ Lý Sanh).

Dòng sông Quây Sơn biên giới Việt-Trung.

Dòng sông Quây Sơn biên giới Việt-Trung.

Đường sông mỗi lúc một dốc nghiêng dần về phía Nam tới xã Đàm Thủy. Nước chảy siết qua những bãi đá nên chia thành một số nhánh như hình bàn tay xòe ra năm ngón. Đó là dòng sông mang hình những ngôi sao lấp lánh dưới ánh mặt trời. Dọc trên đường có ngôi làng toàn những ngôi nhà xây bằng đá đẫm rêu phong thời gian.

Cố thi sĩ Lữ Huy Nguyên đã từng chèo thuyền trên sông Quây Sơn tức cảnh sinh tình: “Những hàng rảo xếp đá chân đồi sim/ Tiếng đàn tính rập rờn khung cửa sổ/ Cánh cò trắng rợp trời trưa vỡ cỏ/ Lốc cốc trâu đàn tiếng mõ khuya”. Đoàn chúng tôi đi dọc sông biên giới (đoạn chung với quốc gia nước bạn) từ dưới cửa Lý Vạn nên phẳng lặng hiền hòa. Nhiều tốp chơi đàn tính chuẩn bị vào hội hát Then thật rộn ràng. Những ngôi nhà sàn người Tày đồ xôi trám thơm lừng đón khách. Nghe chủ nhà nói, hội Then năm trước có tới cả ngàn người tham gia. Toàn những tay đàn giỏi, giọng hát hay của người Tày và Nùng biểu diễn. Hàng trăm sơn nữ xinh tươi như hoa thu hút hàng chục ngàn du khách tới dự. Xuân này có lẽ còn lớn hơn.

Ông chủ quán xởi lởi trò chuyện và dẫn chúng tôi tới xem đội văn nghệ đang tập luyện dưới nhà sàn lớn. Họ hát giao duyên bên sông Quây Sơn xanh ngắt. Lời ca rền vang vách núi: “Anh yêu em nhiều nhiều/ Cũng đành liều để sống/ Cơm ăn đôi đũa chống nhìn mâm/ Đêm nằm đôi gối suông đâu ngủ/ Nước mắt ứa ai hay/ Nỗi niềm nay ai hay biết…” (dân ca Tày).

Thiền viện Trúc Lâm Bản Giốc.

Thiền viện Trúc Lâm Bản Giốc.

Cứ thế mắt trao mắt. Lời trao duyên. Tiếng đàn tính qua tay người nghệ nhân nghe như tiếng người than thở. Tôi còn nhớ nhà thơ Nông Quốc Chấn đã có lần mê mẩn tiếng đàn quê hương ông: “Có bùa chăng!/ Dây tính hỡi say mê/ Mười hai vía trong người tôi tỉnh dậy”. Chả thế các cụ đã truyền: “Già qua đường nghe tiếng lượn/ Về nhà như biến thành trai trẻ”. Nước sông Quây Sơn tiếp tục đưa chúng tôi ngược dòng lên Bản Giốc trong nhịp điệu tròng trành lời Then. Nước sông trong xanh nhìn tới đáy cho dù con nước có độ sâu vài ba mét. Những nhũ đá nổi bật trên mặt nước như búp măng trời dựng ngược.

Một số thuyền chở khách xuất hiện phía trước lấp lánh trong nắng sớm rọi qua khe núi. Những bông hoa lan Tiên Vũ cheo leo tỏa hương trên cành cây dẻ dọc đường đi. Xuân về hoa phong lan nở rộ thành chùm như đuôi chồn, đuôi cáo hay móng rồng khoe sắc. Quang cảnh mỗi lúc một xuân tươi đúng như nhà thơ Dương Kỳ Anh đã viết: “Người về Cao Bằng mùa xuân/ Núi đồi căng nở/ Buộc vào lưng chừng trời/ Hoa đỏ” (Người về Cao Bằng mùa xuân).

Nẻo lên Bản Giốc

dễ quên đường về

Thác Bản Giốc hiện ra trước mặt chúng tôi lúc nào không hay. Lòng sông mỗi lúc một mở rộng có độ sâu hàng chục mét khi gần tới hồ dưới chân thác. Trưởng đoàn nhắc chúng tôi cẩn thận khi vượt qua những búp đá và khúc ngoặt bất ngờ. Thác nước xối ào trên cao chừng gần 40 mét. Chúng dội xuống qua ba tầng vực đá, trải dài cả trăm mét tạo một cảnh quan kỳ vĩ. Một biển sóng tung tỏa từ trên cao trắng xóa vùng trời. Một cảm giác mê ly được cố thi sĩ Hoàng Trung Thông bộc bạch cảm xúc: “Bản Giốc đó một chuỗi cười vô tận” và ông đã mô tả: “Đây trời nghiêng sóng trào nước đổ/ Đây mưa phun khói tỏa ngày đêm/ Đây sắc cầu vồng bay múa/ Khi ngày về núi đỡ mặt trời lên” (Thác Bản Giốc). Và chúng tôi được nghe hướng dẫn viên kể chuyện ngay trên con thuyền đứng giữa dòng sông biên giới.

Thác Bản Giốc chung biên giới hai nước Việt-Trung trên dòng sông Quây Sơn.

Thác Bản Giốc chung biên giới hai nước Việt-Trung trên dòng sông Quây Sơn.

Câu chuyện tình người Tày vẫn lưu truyền bao đời qua về một thôn nữ xinh đẹp nhất vùng Đàm Thủy xưa. Dân bản ai cũng khen: “Nàng đẹp như dòng suối trong/ Như bông lan núi thơm dòng Quây Sơn/ Nõn nà hạt dẻ vai tròn/ Ngực xuân phơi phới chon von hoa rừng…”.

Ngày ấy, cô mải hái rau bên sông Quây Sơn thì bị một hoàng tử bắt về làm vợ. Hoàng tử mê mẩn người đẹp từ lâu nhưng đã bị cô từ chối lời cầu hôn. Hơn nữa, nàng đã yêu thương một chàng trai nông dân nghèo. Cả hai luôn bên nhau và hẹn hò một ngày cưới không xa. Tuy bị bắt cưới và ép gả hạnh phúc nhưng người đẹp kiên quyết lấy cái chết để giữ gìn trinh tiết. Người yêu cô từ xa về biết chuyện đã lập mưu đánh lừa quân lính để cướp lại bạn tình. Chàng cùng bạn gái bỏ trốn qua năm con suối, bảy ngọn núi và tám đèo. Hai người chạy rất xa khi tiếng vó ngựa của hoàng tử đã gục ngã. Nhưng quá mỏi mệt và đói khát tới kiệt sức cả hai nằm sưởi ấm cho nhau bên khe núi chênh vênh. Đêm đó mưa to gió lớn dữ dội cùng sấm chớp dậy trời.

Khi chàng hoàng tử tìm tới nơi vách núi dựng đứng thì chỉ thấy hai tầng thác ào ào trắng xóa. Cả hai đã hóa thành hai tầng thác lũ. Trời mây thăm thẳm vô phương. Hoàng tử cũng phủ phục vỡ tim vì tức giận. Những người dân sau đó thấy hiện thêm tầng thác thứ ba hiện lên phía trên. Dòng thác càng thêm dữ dội phun trào. Đó chính là sự tích của ba tầng thác Bản Giốc xối nước từ trên độ cao gần 40 mét và trải dài hàng trăm mét.

Trăm năm qua thác Bản Giốc hùng vĩ đã trở thành kỳ quan thế giới. Theo bản đồ từ thời Pháp con thác rộng tới 300 mét chia làm hai phần cao và thấp. Riêng phần thác thấp rộng chừng 150 m thuộc hẳn địa giới nước ta (thác cao chừng 30 mét). Phần thác thấp nằm giữa biên giới Việt-Trung nên cột mốc phân định chính ở giữa dòng sông Quây Sơn. Đây là dòng sông hữu nghị hai bên cùng khai thác và quảng bá văn hóa du lịch. Quây Sơn là dòng sông của thi ca và luôn chìm ngập trong không gian của những hội hát Then mùa xuân. Khung cảnh thiên nhiên có môt không hai này luôn thân thiện với hình ảnh: “Dòng thác bạc, sáng rực trời Bản Giốc/ Sông Quây Sơn hoa cát nở hồng/ Thung lũng cỏ đẫm xanh sa mộc/ Con cá trầm hương thơm bữa cơm đồng” (“Bản Giốc” - Lữ Huy Nguyên).

Anh hùng cái thế bên dòng sông Quây Sơn

Chúng tôi được dẫn lên chùa Phật tích Trúc Lâm Bản Giốc để ngắm toàn cảnh thác Bản Giốc với nét thủy mặc hiếm có. Một bức tranh thiên tạo độc đáo vùng biên viễn xa xôi. Ngôi chùa được xây trên lưng núi Phia Nhằm với diện tích 3ha là nơi thu hút hàng chục ngàn phật tử hành lễ. Mọi người tới đây tu phật và coi chùa là Thiền viện Trúc Lâm linh thiêng và lớn nhất tỉnh Cao Bằng. Người dân coi chùa là cột mốc tâm linh dân tộc sừng sững trên núi cao. Đây là một biểu tượng mang tính quốc gia đặc biệt ở vùng biên giới.

Ngoài thờ Phật, chùa còn xây đền thờ thần Nùng Trí Cao, một anh hùng cái thế lừng lẫy của dân tộc Tày trên Cao Bằng cách đây gần 1.000 năm.

Biểu tượng người anh hùng Nùng Trí Cao được người Tày Cao Bằng tôn vinh như một vị thần và lập đền thờ ở nhiều nơi. Ngôi đền tôn thờ Nùng Trí Cao trên sông Quây Sơn càng tô đậm ý nghĩa cho sức mạnh và ý chí bảo vệ non sông đất nước của dân tộc ta. Cũng từ ngôi đền này ta thấy thác Bản Giốc hùng vĩ và đầy quyến rũ. Thật đúng là: “Quây Sơn lấp lánh mắt thuyền/ Nẻo lên Bản Giốc dễ quên đường về/ Thác ghềnh muôn nẻo sơn khê/ Gió tung bọt trắng bốn bề núi cao” (“Nhớ sông quê” - Hạnh An).

Vương Tâm

Nguồn ANTG: https://antg.cand.com.vn/phong-su/thac-ghenh-muon-noi-son-khe-i756258/
Zalo