Tết xưa – một góc tâm hồn
Vợ của người bạn thân, nhìn nong bánh thuẫn xuýt xoa: 'Em nhớ Tết xưa quá. Những ngày thơ ấu nghe mùi bánh ngồi mơ về một mùa xuân sắp đến'. Tôi và bạn cùng ừ, và những mùa Tết đã qua đọng ở một góc tâm hồn, lại khuấy động.
Dành dụm cho Tết
Có lẽ, những người làm nghề nông vào khoảng thập niên 1980 là dành dụm cho Tết sớm nhất từ những sản vật thu hoạch ở ruộng vườn. Họ có ý nghĩ cố gắng để tự “làm ra Tết” ngay lúc gieo hạt, để khi vụ mùa tới trong nhà có những thức chế biến ra mọi thứ.
Gia đình tôi thuở ấy cũng không ngoại lệ. Thửa ruộng nào nên cấy loại nếp giống gì để Tết đến gói nồi bánh tét, thửa đất nào rải giống nếp nương (loại nếp giống xưa, hạt hơi dài và dẻo, vỏ màu xám ở quê miền Quảng Trị thường trồng ở các cồn đất) để nấu nồi xôi cúng tất niên. Ở đâu trồng đậu phộng để làm kẹo, chỗ nào rải hạt mè (vừng) để dùng làm phụ gia thực phẩm, góc vườn nào trồng mấy liếp gừng để làm mứt có vị cay mà không quá nồng…
Vậy là ngay từ vụ hè - thu, khoảng tháng 6 Âm lịch trở đi, một “chiến dịch gia đình” nho nhỏ dành dụm cho tết bắt đầu khởi động. Nuôi lứa heo giống gì, cho ăn ra sao để thịt thơm ngon; chọn con gà trống nào đẹp mã ươm nuôi để đến Tết cúng cuối năm có cặp giò may mắn; dặn lò ấp trứng nào để nếu nở ra lứa vịt con mập mạp đem về chăm bẵm. Phải nói cái sự tự “làm ra Tết” ấy của nhà nông là cả một sự cân nhắc sắp xếp của người chủ gia đình, sao cho đạt kết quả viên mãn nhất để đón một mùa xuân với hy vọng mọi sự hanh thông, suôn sẻ.
Đó là tất cả tâm sức và ước mơ, không chỉ làm ra tiền mà có được. Bởi, chẳng có gì hay hơn, ngon hơn thứ mình đã chọn lựa và tự làm ra. Nó là kết quả của khoảng thời gian khá dài, từ trong nhà ra đến ruộng đồng. Thúng nếp nào gói bánh, thúng nếp nào nấu xôi, con heo nào được chọn, chú gà nào sẽ lên mâm…, sẽ chứng minh cho cái tâm sức ấy của gia chủ và các thành viên trong gia đình đã đủ đầy, trọn vẹn hay chưa. Để đến giờ khắc thiêng liêng nhất trong năm, lúc thành kính dâng hương lên tiên tổ, xoa tay nhìn ngó khắp lượt thấy công sức dành dụm của mình không uổng phí. Sự kết tinh tâm hồn vật chất cho Tết như vậy, mỗi khi nghĩ lại tôi vẫn thấy đó là một dấu ấn truyền thống khó phai, cũng là điểm nhấn tâm linh của muôn vạn gia đình nông dân vốn thoát thai từ nền văn minh lúa nước ngàn đời.
Ăn Tết
Tôi vẫn nhớ cảm giác khi từng cái bánh thuẫn được gỡ ra khỏi chiếc khuôn, hay từng đòn bánh tét được vớt ra khỏi chiếc nồi lớn, hoặc chảo mứt gừng vừa sên xong đổ ra mâm. Đó là khoảnh khắc rạo rực của mùa xuân, nó chứa đựng biết bao sự vất vả của một gia đình, được thăng hoa chuyển hóa từ tấm lòng ấp ủ, làm sao cho đủ đầy vị Tết.
Có lẽ với quan niệm bây giờ, như thế đã là cổ hủ vì… rất nhiều người sẽ nói “làm gì cho cực vậy”, song chuyện ăn Tết đã nuôi dưỡng biết bao ký ức, kỷ niệm. Vui nhất là những lúc hàng xóm láng giềng nếm thử sản phẩm Tết của nhau, lại bình phẩm ngon dở, ngọt bùi, nồng cay… mà lời chê khen ấy, đều bắt nguồn từ một điều rất cốt lõi, là đặc tính tự cung tự cấp hoặc trao đổi hàng hóa của cộng đồng cư dân mang tính chất làng mạc. Điều mà chỉ khi Tết đến, tinh thần ấy mới tỏ ra đậm đặc nhất và biểu hiện rõ nhất ở các gia đình nông dân thôn quê.
Cũng ăn Tết thuở ấy, tôi vẫn nhớ rõ chuyện ba tôi làm bánh in. Mớ nếp ngon nhất xay thành bột nhuyễn để dành riêng cho việc đúc bánh, gọt bánh đường vàng ra từng lát rất mỏng vào mâm bột, đun sôi cho quyện lại hũ nước gừng rồi nhào trộn mấy thứ thành một hỗn hợp ngọt ngào thoảng chút vị cay. Chiếc khuôn đúc bằng gỗ mít đã được lấy từ trong tủ đồ ra rửa sạch từ chiều, lau khô để bên cạnh. Sau khi chuẩn bị xong mọi thứ nguyên liệu, ba tôi leo lên xếp bằng trên chiếc phản, vẻ khá trịnh trọng, múc từng muỗng hỗn hợp ấy cho vào các khuôn hình chiếc bánh. Nén chặt và gọt đáy bằng dao, sau đó úp chiếc khuôn lại và dùng chày nhỏ gõ nhẹ. Từng chiếc bánh rớt ra, trên mặt in hình hoa mai, hoa cúc hoặc chữ phúc, chữ hỉ. Ngồi cạnh, tôi say sưa nhìn ngắm từng chiếc bánh to bánh nhỏ lần lượt sắp ra mấy chiếc mâm. Giờ hình dung lại, để có vài chục lượt bánh ấy, có khi phải dành dụm tâm sức hàng tháng trời, không ngoài ý nghĩ để cúng Tết, ăn Tết!
Bây giờ, lúc Tết đến xuân về, bấm máy điện thoại đặt mua vài chục chiếc bánh chưng hoặc đòn bánh tét vô cùng đơn giản. Chẳng thấy chẳng biết ai làm, tiền chuyển khoản đi nhanh gọn, nhưng lúc ăn không thấm được cái hương vị đồng áng. Khác với ngày ấy, khi chị tôi dốc bao nếp ra ngâm để ba tôi gói bánh, nhìn thấy là biết kết quả của thửa ruộng nếp từ lúc gieo mạ xuống, từng cây nếp vào thì con gái, rồi ngậm hạt cho đến lúc chín vàng. Lúc này, từng mớ nếp trắng ngần nằm trong chiếc thau nhôm ngâm nước giếng thơi. Và thúng nếp ấy an nhiên để chờ được gói lại, dằn kỹ ôm ấp từng khúc thịt mỡ, đậu xanh trong tầng lớp lá chuối vừa cắt hồi chiều sau vườn.
Để rồi, tôi lăng xăng cùng anh chị trong nhà nổi lửa với những gốc cây chất khô từ nhiều tháng trước. Lửa cháy đậm đà, tí tách nhấp nháy chiều đông. Sùng sục sôi, tẩm ngẩm chín. Bừng lên một mùi thơm dịu hương lá chuối xanh mỗi khi thay lượt nước mới để lá bánh vẫn xanh và không bị đen. Nồi bánh tét có lẽ là “trọng tâm” của mỗi gia đình mỗi dịp xuân về. Lửa đều đặn, bánh vớt ra tròn lẳn, nhuyễn nếp, không bị ngấm nước là một sự may mắn, mà ai cũng đều mong ước.
Và chơi Tết
Thỉnh thoảng, mỗi khi Tết đến, tôi lại bắt gặp vài ba tấm hình đen trắng ngày xưa của bà con, bạn bè post lên Facebook và đôi dòng kể chuyện đi chơi Tết hồi ấy. Có người làm dáng bằng chiếc quần loe ống rộng, áo chít lại bó sát người. Có người tươi cười bên một gốc mai đang sung mãn nở của nhà người quen. Lại có người đứng bên cánh đồng lúa xanh khi đi bộ từ làng này sang làng khác thăm thân hữu, họ hàng.
Rồi tôi chợt nhớ mỗi sáng mùng 1 Tết của mình khi bước chân ra khỏi nhà, lúc đang độ tuổi thiếu niên. Ba tôi đi trước áo mặc dài đội khăn đóng, tay cầm chiếc dù màu đen kẻo lỡ trời miền Trung buông mưa dầm bất chợt. Tôi bước theo sau để đến nhà thờ họ tộc. Trước đó, vào đêm giao thừa, ba tôi dặn: “Sáng sớm mai, cùng ba đi nhà thờ thắp nhang, rồi sau đó đi đâu thì đi”. Gian nhà thờ có đầy đủ các vị lão niên, nhang trầm tỏa thơm nghi ngút. Những lời chúc tụng, tiếng rì rầm khấn vái như vẫn còn văng vẳng cho đến tận bây giờ.
Để rồi sau đó, đám thiếu niên chúng tôi rủ rê nhau đi chơi Tết. Nhà này nhà nọ, âm vang những khúc dạo đầu của mùa xuân khi khoe nhau những chiếc áo mới, ăn hạt dưa hay bánh mứt gia chủ đãi. Có khi từ làng này chúng tôi đi bộ qua làng nọ, xã này qua xã kia. Sau đó, dần dần mỗi xóm có vài chiếc xe đạp thì chở nhau. Ghé gian hàng hội chợ, lô tô hoặc nghe hô bài chòi, đánh cờ người… Kiểu chơi Tết đơn giản, nhưng kỷ niệm lưu dấu đến bây giờ.
Ký ức cũng nhắc lại chuyện vào một năm tôi “đánh mất” chuyến đi chơi Tết cùng bạn bè. Vì đêm hôm trước, đem ủi chiếc áo mới bằng chiếc bàn ủi than, mà hồi đó hay gọi là bàn ủi con gà được làm bằng đồng, bởi nó có cái chốt hình con gà trống, lỡ tay không may rơi tàn lửa bị cháy vạt áo. Náo nức vội vàng với Tết, nên xảy ra lỗi vì còn phải chuyền tay nhiều đứa mượn nhau chiếc bàn ủi, kịp trước lúc giao thừa.
Chiếc áo mới ấy đã khiến tôi khá nhiều lần tiếc nuối, vì lỡ hẹn chuyến chơi Tết quê nhà mùa xuân nào, của một thuở hoa niên!