Tất niên đi chùa, buông xuống chuyện nặng lòng năm cũ
Trên đường ra mộ thắp hương cho ông bà, con cháu tranh thủ ghé thăm ngôi chùa gần đó. Bao muộn phiền của năm cũ theo làn khói nhang và cơn gió đầu xuân cứ thế tan biến nhanh.
Xế trưa tôi lên chùa Từ Đàm cúng dường Tất niên theo tục lệ gia đình từ xưa.
Thấy các Thầy trẻ đang lúi húi trưng mấy cành mai tứ quý, cùng những cành đào vào các độc bình, sửa dáng trên các chậu bonsai, vài Thầy khác đứng bên bình phẩm bị bộ nỉ tế, nhà chùa.
Những chậu hoa kiếng chưng trước tam cấp đi tạo nên một góc chộn rộn ba bữa Tết trong cảnh yên lặng lên phòng khách và phòng trai tăng, nơi Ôn (cách gọi tôn kính chỉ sư trụ trì) ngày xưa hay ngồi đọc sách hoặc tiếp khách, hoa lá hôm nay sáng rỡ lạ thường, tươi tắn như vừa được tắm tất niên.
Cây bồ đề cổ thụ đang trổ lá non vẫn hồn nhiên thân thiện như độ nào. Hoa mộc vẫn thơm hiền hòa. Cửa tam quan và chánh điện treo đèn lồng trái ú kết tua ngũ sắc làm tăng vẻ trang nghiêm mừng đón năm mới.
Mọi rộn ràng hối hả sửa soạn đón xuân dưới phố bỗng dừng lại nơi cổng chùa, không khí an lành, khiêm nhã quyện màu lam thiền, mộc mạc nhưng đầy lạc tịnh. Đó đã là Từ Đàm một thời của tôi và đến hôm ấy vẫn còn là như thế.
Tôi hỏi xin Thầy Hải Ân cho mượn chiếc xe đạp đi lên thăm các chùa sư nữ và thăm mộ mạ tôi ở gần đấy. Thầy ái ngại sợ tôi đạp xe loạng quạng, tôi thưa: “Nữ sinh Đồng Khánh đạp xe từ lúc mười bốn tuổi, thưa Thầy”.
Khi thấy tôi lên yên xe đứng trên đầu dốc đường hẻm sau chùa, một chú tiểu lắc đầu, chỏm tóc thí phát phất phơ, hóm hỉnh: “Cô Kim Lan thiệt là hậu hiện đại, thời nay Honda là mức chót của tân tiến, mà cô lại trở về với xe đạp...”.
Câu nói đuổi theo khi xe lao xuống cái dốc hẻm sau chùa và thẳng hướng cầu Lim. Qua viện dưỡng lão của ni sư Diệu Thành, tôi cúng dường để quý sư cô “lì xì” cho các mệ già vui ngày mồng một Tết. Trời đã nhá nhem khi tôi gõ cửa chùa ni sư Diệu Ý, chùa cô nuôi các bệnh nhân đã hết phương cứu chữa, bị bệnh viện trả về. Chùa đã lên đèn chuẩn bị cúng chiều, các phòng bệnh yên lặng trong không khí ẩn nhẫn an bình, tưởng như thời gian không cần có tên gọi...
Vẫn dáng mừng rỡ thân tình, sư cô nắm cả hai tay ấm áp, tôi thưa, xin cúng dường quà cho bệnh nhân và tên xây tháp Quan Âm cầu nguyện cho bệnh nhân, đã hứa với cô từ lâu, “sợ lời hứa kéo dài qua ngày mai là thêm một nhà nữa thì nợ càng chồng chất!”. Nợ nần năm cũ phải rủ hết để bước sang năm mới thong dong.
Sư cô cười bảo “Chị đi Tây rứa mà cũng theo xưa ghê hè!”. Thấy tôi vội vàng cảnh thăm mộ mạ kẻo sợ tôi, cô sốt sắng dẫn tôi đi con đường tắt từ chùa sang đồi thông.
Con đường đất ngoằn ngoèo giữa các nương sắn, cha thanh trà, bưởi, mía, ổi, bỗng mở ra trước mắt cảnh êm đềm đón Tết miền quê trong ánh chiều mờ nhạt. Xa hẳn với cảnh bát nháo hỗn loạn đầy nhãn hiệu quảng cáo sặc sỡ ở phố, mùi lá chanh, lá bưởi, lá ổi thanh lọc khứu giác làn cho ấn tượng về ngoại cảnh bỗng quay chiều. Mùi hương tinh khiết thoảng đến dẫn dắt vào trong một thế giới và lạ vừa quen.
Hình như cái không khí đón Tết miền quê vẫn như thế tự bao đời: Âm thầm, kính cẩn, mầu nhiệm và chân tình, mà trẻ thơ thường linh cảm bề sâu của nếp sống ấy và giữ hoài trong tâm, cho nên quen thuộc như màu chiều đang phết tím ngọn cây...
Các nhà trong xóm đã lên đèn, bóng người loáng thoáng vào ra trước ngõ thắp hương, cúng đất đai thổ thần, chuẩn bị giờ hoàng đạo. Mùi hương trầm từ các ngôi miếu nhỏ trong vườn (vườn Huế thường có miếu thờ thổ thần, đất đai) lãng đãng huyền nhiệm theo chân chúng tôi đến nơi mộ chí. Tôi thắp hương cho mạ và đứng mặc niệm hồi lâu.
Hơi lạnh buổi cuối năm luồn trong gió vi vu trên cành thông từng cơn theo tiếng thời gian đang chuyển. Âm vang năm tháng đang lụi tàn dội xuống triền đồi, lan mau như bước chân gấp gáp của ai trên đường về ngõ sâu.