Tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tiếp cận tốt hơn với các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
Đại biểu Quốc hội cho rằng, việc bổ sung quy định về hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật là cơ sở pháp lý để xây dựng, cập nhật, quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia thống nhất từ Trung ương đến địa phương, qua đó tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tiếp cận tốt hơn với các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.
Bổ sung cơ chế thúc đẩy sáng kiến cải tiến các tiêu chuẩn, quy chuẩn
Chiều 28/11, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 8, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật.
Góp ý vào dự thảo luật, đại biểu Triệu Thị Ngọc Diễm (Sóc Trăng) nhấn mạnh, việc sửa đổi, bổ sung Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 không chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà còn là chiến lược lâu dài để nâng cao chất lượng quản lý nhà nước, phát triển kinh tế-xã hội bền vững.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 thể hiện nỗ lực lớn trong việc hoàn thiện khung pháp lý về tiêu chuẩn hóa, bảo đảm phù hợp với các cam kết trong Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của thực tiễn.
Chính vì thế, đại biểu bày tỏ sự thống nhất cao với sự cần thiết sửa đổi luật và cơ bản tán thành với dự thảo luật được trình tại kỳ họp.
Về tính khả thi của hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, đại biểu thống nhất cao việc bổ sung nội dung tại Điều 8c về hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật và một số điều khoản khác trong dự thảo liên quan đến nội dung này, nhấn mạnh việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật sẽ mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước như tiết kiệm chi phí tìm kiếm thông tin, hay tăng tính minh bạch và độ tin cậy của các sản phẩm trên thị trường.
Đại biểu đề xuất cần quan tâm và làm rõ lộ trình thực hiện, thời gian hoàn thành vận hành thử nghiệm và trách nhiệm cụ thể của từng cơ quan, cơ chế chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan và khả năng liên kết với cơ sở dữ liệu quốc tế, cũng như nguồn kinh phí cho việc xây dựng và duy trì hệ thống.
Thêm vào đó, cần làm rõ chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp tham gia xây dựng hệ thống, thí dụ như miễn, giảm hoặc giảm phí cho doanh nghiệp, tổ chức khi truy cập và sử dụng dữ liệu trên hệ thống, đặc biệt với các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc các tổ chức nghiên cứu phi lợi nhuận…
Đánh giá cao dự thảo, đại biểu Phạm Văn Thịnh (Bắc Giang) nhấn mạnh, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật của một quốc gia là rất quan trọng, có vai trò quyết định chất lượng các sản phẩm được tạo lập bởi quốc gia đó. Trong hình thành năng lực cạnh tranh quốc gia thì tiêu chuẩn, quy chuẩn cũng có vai trò quan trọng như là cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên, đại biểu cũng cho rằng, dù các cơ quan quản lý đã thường xuyên sửa đổi, bổ sung nhiều tiêu chuẩn, quy chuẩn nhưng thực trạng tiêu chuẩn, quy chuẩn của nước ta vẫn có những bất cập.
Hiện chúng ta có khoảng 13 nghìn tiêu chuẩn quốc gia và 800 quy chuẩn. Việc áp dụng quy chuẩn là bắt buộc, còn tiêu chuẩn là tự nguyện nhưng thực tế hầu hết các hoạt động khi tiến hành thực hiện, người có thẩm quyền đều quy định tuân thủ bắt buộc đối với tiêu chuẩn, nhất là đối với hoạt động xây dựng công trình.
Đại biểu phân tích, việc thiết kế tiêu chuẩn, quy chuẩn có thể gặp phải xu hướng là xây dựng quá chi tiết, quá thừa, chủ yếu quan tâm đến thủ tục thực hiện mà không ưu tiên theo hướng kiểm soát chất lượng khi kết thúc từng giai đoạn dẫn đến mất đi sự sáng tạo, tăng chi phí tuân thủ, có thể còn lạc hậu khi công nghệ vật liệu sử dụng đã thay đổi hoặc khi có tiêu chuẩn sản phẩm phù hợp hơn với thực tiễn, hiệu quả kinh tế cao hơn nhưng chậm được ban hành để áp dụng.
Để cải thiện việc này được bền vững, đại biểu Thịnh nhấn mạnh, cách duy nhất là phải phát huy vai trò nhân dân và dựa vào nhân dân.
Vì vậy, đại biểu đề nghị luật cần bổ sung một điều quy định cơ chế thúc đẩy sáng kiến cải tiến các tiêu chuẩn, quy chuẩn và cơ chế giám sát của cộng đồng, của Quốc hội; trách nhiệm giải trình của cơ quan ban hành để bảo đảm các tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn quốc gia luôn được cải tiến theo hướng phù hợp với hội nhập quốc tế, dễ thực hiện, chi phí tuân thủ tối ưu, có không gian sáng tạo để thúc đẩy áp dụng công nghệ, kỹ thuật, vật liệu mới trong thực hiện tiêu chuẩn, quy chuẩn.
Nội dung sáng kiến, giám sát, giải trình cần được thực hiện công khai và ghi nhận hoàn toàn trên môi trường số và giao Chính phủ có trách nhiệm quy định chi tiết nội dung điều này.
Cần có cơ chế giám sát giảm chi phí tuân thủ của người dân và doanh nghiệp
Thay mặt cơ quan chủ trì soạn thảo, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt đã giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu.
Bộ trưởng khẳng định, không có sự chồng chéo giữa Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật với các luật chuyên ngành khác về thủ tục công bố hợp quy.
Với đề nghị bỏ thủ tục công bố hợp quy, Bộ trưởng cho rằng điều này không khác nào Việt Nam bỏ quy chuẩn kỹ thuật. Mặt khác, việc bỏ thủ tục công bố hợp quy sẽ đi ngược lại với thông lệ quốc tế, cam kết quốc tế; đồng thời gây rủi ro, mất an toàn khi có những sản phẩm hàng hóa không có biện pháp quản lý chất lượng nào khác ngoài quy chuẩn kỹ thuật.
Về việc áp dụng phạm vi tiêu chuẩn cơ sở trong lĩnh vực chuyên ngành, Bộ trưởng cho biết, nếu mở rộng phạm vi áp dụng tiêu chuẩn cơ sở của cơ quan nhà nước, có thể dẫn đến tình trạng áp dụng tùy tiện, lợi ích nhóm, gây khó khăn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tiếp tục nghiên cứu bổ sung làm rõ thêm quy định này.
Giải trình ý kiến đại biểu về doanh nghiệp đánh giá hợp quy dựa trên kết quả đánh giá sự phù hợp, dựa trên các quy chuẩn, Bộ trưởng nhất trí với ý kiến của đại biểu để bổ sung cơ chế hậu kiểm đối với mức độ rủi ro của sản phẩm.
Bộ trưởng cũng tiếp thu ý kiến của đại biểu về bổ sung quy định về báo cáo đánh giá tác động của quy chuẩn để bảo đảm tính khả thi của quy chuẩn, bên cạnh nghiên cứu bổ sung việc khuyến khích sáng kiến cải tiến các tiêu chuẩn, quy chuẩn.