Tạo cú hích mạnh mẽ thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp công nghệ số
Luật Công nghiệp công nghệ số được xây dựng nhằm tạo cú hích mạnh mẽ thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp này theo 4 mục tiêu lớn...

Ảnh minh họa
Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh điều này khi giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu tại phiên thảo luận dự thảo Luật Công nghiệp Công nghệ số chiều ngày 9/5.
HÀNH LANG PHÁP LÝ, CƠ CHẾ ƯU ĐÃI VƯỢT TRỘI CHO CÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ SỐ
Phát biểu thảo luận dự thảo luật, đại biểu Trần Thị Thanh Hương, đoàn An Giang, nhận xét dự thảo luật đã cơ bản hoàn thiện, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập, tạo hành lang pháp lý và tạo cơ chế ưu đãi cho công nghiệp công nghệ số.
Đặc biệt, nhiều chính sách được quy định trong dự thảo luật là những chính sách mới có tính đột phá chưa từng được đề cập trong các văn bản quy phạm pháp luật trước đây và được xây dựng trên cơ sở đánh giá tính khả thi, xác định rõ các điểm nghẽn để tháo gỡ, góp phần nắm bắt, tận dụng các cơ hội thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp công nghệ số Việt Nam trong thời gian tới.
Liên quan đến thúc đẩy nghiên cứu và phát triển sản phẩm, dịch vụ công nghệ số, dự thảo luật đã kịp thời thể chế hóa Nghị quyết số 57 với nhiều cơ chế ưu đãi như ưu đãi vượt trội cho những dự án đặc biệt, khuyến khích nghiên cứu và phát triển đổi mới sáng tạo công nghệ số, ưu đãi thuê, mua sắm sản phẩm, dịch vụ công nghệ số nhằm chuyển dịch từ gia công lắp ráp sang sáng tạo, thiết kế sản xuất tại Việt Nam,…

Đại biểu Trần Thị Thanh Hương, đoàn An Giang.
Bên cạnh những cơ chế, chính sách đã đề cập, đại biểu đoàn An Giang kiến nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc có thể giao cho Chính phủ nghiên cứu quy định để có thêm những chính sách ưu đãi vượt trội hơn. Chẳng hạn như đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo trong hoạt động đào tạo về công nghệ số nhằm đảm bảo tính khả thi và thống nhất với quy định của pháp luật về đầu tư và nghiên cứu.
Cần có những cơ chế phù hợp nhằm tăng cường hỗ trợ các hoạt động khởi nghiệp sáng tạo trong lĩnh vực công nghệ số. Bên cạnh đó, có chính sách hỗ trợ và khuyến khích đầu tư tốt hơn nữa trong xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo, ươm tạo khởi nghiệp trong phát triển và áp dụng công nghệ số.
Trong dự thảo luật cũng đề cập đến những vấn đề này nhưng mới chỉ dừng ở việc thúc đẩy, còn thúc đẩy như thế nào thì chưa rõ. Thực tế cho thấy, đây là những mấu chốt rất quan trọng, nhưng hiện nay vẫn là những điểm nghẽn rất cần được quan tâm tháo gỡ bằng những cơ chế, chính sách đột phá, vượt trội hơn và cụ thể hơn.
“Các cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ ưu đãi vượt trội tại dự thảo luật sẽ là tiền đề để phát triển, giúp cho công nghiệp công nghệ số trở thành ngành kinh tế đóng góp lớn vào sự phát triển của kinh tế đất nước, tạo môi trường thuận lợi nhất để nuôi dưỡng và phát triển các doanh nghiệp công nghiệp công nghệ số Việt Nam, góp phần thực sự đưa Nghị quyết số 57 của Đảng đi vào cuộc sống”, đại biểu Hương nhấn mạnh.
Góp ý vấn đề này, đại biểu Phạm Văn Hòa, đoàn Đồng Tháp, đánh giá ngành công nghiệp công nghệ số của Việt Nam tuy đi sau nhưng "không trễ". Theo đại biểu, cần đặc biệt quan tâm đến chính sách đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp về công nghệ số trong nước và cả các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài.
Đại biểu đoàn Đồng Tháp cũng cho rằng cần có chính sách ưu đãi cụ thể, nhất là về thuế, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển công nghệ cao, tiến tới làm chủ công nghệ bán dẫn, lĩnh vực chiến lược trong chuyển đổi số quốc gia.
Cùng quan điểm, đại biểu Lưu Bá Mạc, đoàn Lạng Sơn, đề nghị bên cạnh những chính sách vượt trội đã được đề cập trong dự thảo luật, cơ quan soạn thảo cân nhắc bổ sung thêm 1 chính sách theo hướng thúc đẩy liên kết giữa công nghiệp bán dẫn và công nghiệp điện tử trong dự thảo luật.
“Công nghiệp bán dẫn là nền tảng cốt lõi của các sản phẩm điện tử hiện nay. Do đó, việc xây dựng cơ chế phối hợp nghiên cứu, sản xuất và chuyển giao công nghệ giữa 2 ngành sẽ góp phần phát triển hệ sinh thái công nghiệp đồng bộ, hạn chế sự phụ thuộc vào nhập khẩu, đồng thời nâng cao giá trị nội địa của sản phẩm”.
XÁC ĐỊNH RÕ TIÊU CHÍ LỰA CHỌN SẢN PHẨM, DỊCH VỤ ĐƯỢC PHÉP THỬ NGHIỆM SANDBOX
Về định nghĩa công nghệ số chiến lược, dự thảo luật quy định công nghệ số chiến lược là một loại công nghệ chiến lược, có vai trò quyết định đối với sự phát triển của quốc gia, có ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh an ninh quốc gia và tăng trưởng kinh tế trong dài hạn bao gồm các công nghệ như AI, Big Data, điện toán đám mây, Internet vạn vật, thực tế ảo, thực tế tăng cường, bán dẫn và các công nghệ số chiến lược khác.
Nêu vấn đề này, đại biểu Thạch Phước Bình, đoàn Trà Vinh, cho rằng việc liệt kê mở dễ dẫn đến mâu thuẫn khi xác định chính sách ưu đãi không rõ căn cứ pháp lý để xác định chiến lược, gây khó khăn cho cơ quan Nhà nước khi áp dụng, đặc biệt trong xét duyệt dự án Sandbox, phân bổ nguồn lực.
Từ đó, đại biểu đề xuất thay định nghĩa trên bằng một định nghĩa có tiêu chí cụ thể như sau: Công nghệ số chiến lược là công nghệ có tính nền tảng, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia, năng lực cạnh tranh quốc tế, tốc độ đổi mới sáng tạo và tăng trưởng kinh tế bền vững.

Đại biểu Thạch Phước Bình, đoàn Trà Vinh.
Việc xác định danh mục công nghệ số chiến lược được Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của Bộ Khoa học và Công nghệ và căn cứ các tiêu chí như mức độ ảnh hưởng đến các ngành, lĩnh vực ưu tiên phát triển, khả năng tạo đột phá về năng suất, hiệu quả, khả năng ứng dụng rộng rãi trong xã hội và nền kinh tế số, tác động đến quyền số và an ninh dữ liệu quốc gia. Định nghĩa này tạo minh bạch, thống nhất trong quản lý và ưu đãi, làm cơ sở xác định đầu tư công, nghiên cứu trọng điểm, đào tạo nhân lực và thử nghiệm sandbox.
Về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát sandbox, Điều 51 quy định khung pháp lý cho sandbox nhưng chưa xác định rõ tiêu chí lựa chọn sản phẩm, dịch vụ được phép thử nghiệm. Điều này có thể dẫn đến tình trạng xét duyệt tùy nghi hoặc lạm dụng chính sách, miễn trừ trách nhiệm.
Do đó, đại biểu đề xuất bổ sung thêm 1 khoản riêng tại Điều 51 hoặc nghị định hướng dẫn về bộ tiêu chí lựa chọn sản phẩm dịch vụ đủ điều kiện thử nghiệm. Ví dụ như có yếu tố công nghệ mới tích hợp đa công nghệ chưa được pháp luật hiện hành quy định rõ, có tiềm năng giải quyết bài toán thực tiễn trong chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả dịch vụ công hoặc năng suất doanh nghiệp, có phương án kiểm soát rủi ro rõ ràng về an toàn dữ liệu, quyền riêng tư, quyền lợi người tiêu dùng, không vi phạm quy định về quốc phòng, an ninh, đạo đức xã hội.
“Việc bổ sung này sẽ đảm bảo sự minh bạch, công bằng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, làm căn cứ đánh giá rủi ro, cấp phép thử nghiệm một cách có trách nhiệm”, đại biểu góp ý.
PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ SỐ TRỞ THÀNH NGÀNH KINH TẾ QUAN TRỌNG
Phát biểu giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu nêu, Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng cho biết Luật Công nghiệp công nghệ số được xây dựng nhằm tạo cú hích mạnh mẽ thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp này theo 4 mục tiêu lớn.
Cụ thể, phát triển ngành công nghiệp công nghệ số trở thành ngành kinh tế quan trọng, đóng góp xứng đáng vào nền kinh tế đất nước;
Cùng với đó hình thành và phát triển được hệ sinh thái về doanh nghiệp công nghệ số, cơ bản chuyển dịch được từ lắp ráp, gia công sang khâu chất lượng cao hơn là sáng tạo, thiết kế, sản xuất, tiến dần làm chủ công nghệ lõi, công nghệ số chiến lược, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hình thành các doanh nghiệp công nghệ số lớn, tầm cỡ quốc tế; phát triển hạ tầng công nghiệp công nghệ số hiện đại, đồng bộ; thu hút, hình thành đội ngũ nhân lực chất lượng cao trong ngành.

Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng phát biểu giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu.
Phó Thủ tướng cho biết sau Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội, cơ quan soạn thảo đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan thẩm tra nghiên cứu, tiếp thu đầy đủ ý kiến của đại biểu và cập nhật một số chủ trương mới của Đảng thể hiện qua 3 nghị quyết: Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá trong khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới xây dựng và thi hành pháp luật và Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, bảo đảm được 3 nguyên tắc.
Thứ nhất, phải vừa đảm bảo quản lý và vừa đảm bảo cho kiến tạo phát triển.
Thứ hai, những quy định có tính chất nguyên tắc chung, còn những vấn đề chi tiết giao lại cho Chính phủ quy định.
Thứ ba, các chính sách phải cụ thể, rõ ràng, đột phá và vượt trội, có thể thực hiện được ngay và cùng một vấn đề chỉ quy định ở một luật tăng cường phân cấp phân, phân quyền, cải cách, cắt giảm các thủ tục hành chính…