Tăng trưởng và hiệu quả của tín dụng

Tăng trưởng tín dụng lâu nay vẫn được xem là động lực cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, theo giới chuyên gia, chất lượng tín dụng cần được ưu tiên hơn số lượng.

Hiệu quả của vốn tín dụng với tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn ở mức thấp

Hiệu quả của vốn tín dụng với tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn ở mức thấp

Hiệu quả tín dụng vẫn thấp

Chính phủ dự kiến tăng trưởng GDP năm nay tối thiểu ở mức 8%, tạo nền tảng cho đà tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026 - 2030. Để đạt được mục tiêu này, theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Cao Anh Tuấn, cần tập trung huy động nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế, với nhu cầu vốn cho cả nền kinh tế khoảng 4 triệu tỷ đồng (khoảng 160 tỷ USD) trong năm nay.

Ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc FiinRatings phân tích: “Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 tới 8%, nhu cầu vốn 160 tỷ USD, bài toán vốn là một thách thức lớn cho chúng ta. Ngoài vốn đầu tư công từ ngân sách nhà nước đã có chỉ tiêu thì chúng ta nên sớm phát huy vai trò của thị trường vốn mạnh mẽ hơn nữa. Bởi trong khi tổng giá trị tiền thu về từ phát hành cổ phiếu của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán dưới 4 tỷ USD và tổng giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp phi ngân hàng dưới 5 tỷ USD năm 2024, còn lại phụ thuộc vào nguồn vốn ngân hàng”.

Ngân hàng Nhà nước đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 16% năm nay, ước tính sẽ có hơn 2,5 triệu tỷ đồng, tương đương khoảng 100 tỷ USD được bơm vào nền kinh tế. Điều này cũng có nghĩa, nền kinh tế vẫn phụ thuộc lớn vào vốn ngân hàng.

Bàn về câu chuyện tăng trưởng tín dụng, ông Ketut Ariadi Kusuma, Trưởng nhóm Tài chính, Cạnh tranh và Sáng tạo của Ngân hàng Thế giới cho rằng, trong thời gian dài, Việt Nam đã tìm cách có được sự song hành giữa tăng trưởng tín dụng và GDP. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là quốc gia có thu nhập trung bình thấp và tỷ lệ tín dụng/GDP đạt khoảng 140%, cao gấp đôi so với con số trung bình 50% của thế giới.

“Tính hiệu quả của vốn tín dụng với tăng trưởng GDP vẫn còn thấp so với các quốc gia khác”, ông Ketut Ariadi Kusuma nhận xét.

Cũng theo ông Ketut Ariadi Kusuma, khi xem xét đóng góp của tín dụng vào các ngành, Ngân hàng Thế giới nhận thấy điều thú vị. Đó là, đóng góp của khu vực sản xuất vào GDP của Việt Nam đã tăng trong những năm vừa qua (bao gồm cả khu vực doanh nghiệp FDI) nhưng đóng góp của tín dụng vào lĩnh vực này chưa lớn. Tín dụng bất động sản vẫn chiếm tỷ trọng cao, chủ yếu cho vay mua bất động sản…

“Thay vì tập trung vào quy mô, cần tập trung vào chất lượng tín dụng”, ông Ketut Ariadi Kusuma nhấn mạnh.

Về câu chuyện tăng trưởng tín dụng trên GDP cao, trao đổi Báo Đầu tư Chứng khoán, ông Ivan Tan, Giám đốc Xếp hạng định chế tài chính của S&P Global Ratings cho biết, điều này khá phổ biến ở các nước đang phát triển, nhưng vẫn cần ưu tiên chất lượng hơn là số lượng tín dụng.

“Để nền kinh tế tăng trưởng bền vững, cần phân bổ vốn tín dụng vào các ngành ưu tiên. Còn những hoạt động đầu cơ, không đóng góp cho nền kinh tế trong tương lai cần được loại bỏ”, ông khuyến nghị.

Cũng theo ông Ivan Tan, việc tăng trưởng tín dụng quá nhanh có thể đẩy các ngân hàng vào tình thế rủi ro.

“Dự báo hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng tín dụng từ 12 - 15% mỗi năm trong 3 - 5 năm tới. Nếu không có các biện pháp bổ sung vốn phù hợp, chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng, đặc biệt trong bối cảnh nợ xấu có xu hướng gia tăng”, ông nói.

Thực tế, trong vòng một thập kỷ qua, chỉ giai đoạn 2015 - 2017, tín dụng ngân hàng tăng trưởng từ 17 - 18%/năm. Sau đó, mức tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng giảm dần về quanh 13 - 14%. Thậm chí, năm 2021 - thời điểm dịch Covid-19 bùng phát, tăng trưởng tín dụng giảm về 12%, mức thấp nhất kể từ năm 2014. Dù vậy, Việt Nam vẫn là thị trường có đặc điểm tăng trưởng vốn và giá tài sản mang tính chu kỳ cao, tạo ra rủi ro đặc thù cho hệ thống ngân hàng.

Cần giảm gánh nặng cung ứng vốn cho ngân hàng

Để nền kinh tế tăng trưởng bền vững, cần phân bổ vốn tín dụng vào các ngành ưu tiên.

Ông Ivan Tan, Giám đốc Xếp hạng định chế tài chính của S&P Global Ratings

Ông Nguyễn Anh Quân, Quản lý cấp cao, Phụ trách Xếp hạng các định chế tài chính của FiinRatings phân tích, nhiều ngân hàng có thể vượt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 16% trong năm nay. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng cho vay quá nhanh cũng tiềm ẩn nguy cơ áp lực lên chất lượng tài sản của các ngân hàng, trong khi chỉ tiêu vốn chưa có dấu hiệu cải thiện rõ rệt trong các quý gần đây.

Đồng quan điểm, ông Ivan Tan đánh giá triển vọng chung của hệ thống ngân hàng Việt Nam là ổn định, song tồn tại sự phân hóa rõ rệt. Các ngân hàng có vốn Nhà nước chi phối sẽ giữ vị thế dẫn đầu về lợi nhuận và sức mạnh tài chính, trong khi ngân hàng nhỏ hơn vẫn đang đối mặt thách thức về vốn, chất lượng tài sản.

Trong khi đó, theo ông Nguyễn Quang Thuân, “để tăng trưởng 8% hoặc hai con số mà thị trường vốn không cải cách sớm thì đây thực sự là một điều quan ngại, bởi chúng ta có ước mơ cao nhưng câu chuyện là nguồn lực ở đâu”.

“Để kéo tỷ lệ tín dụng/GDP xuống trong ngắn hạn là điều khó, nhưng về dài hạn, thị trường vốn, gồm các kênh như chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp và các công cụ tài chính khác, cần đóng vai trò quan trọng hơn trong việc cung cấp nguồn lực tài chính dài hạn cho nền kinh tế. Nếu Việt Nam không sớm phát triển thị trường vốn, mục tiêu tăng trưởng cao năm nay và giai đoạn tới trở nên vô cùng thách thức. Xây dựng được thị trường trái phiếu, thị trường nợ hiệu quả sẽ giúp khơi thông được nguồn vốn trong dân, gồm 15 triệu tỷ đồng tiền gửi tiết kiệm và hàng trăm tỷ USD của ngành bảo hiểm”, ông Thuân nêu quan điểm.

Ông Ketut Ariadi Kusuma nhấn mạnh thêm, phát triển thị trường vốn nội địa là một câu chuyện dài. Nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, Việt Nam phải dựa vào tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng, nhưng vấn đề còn lại là chất lượng của tín dụng. Hiện hệ thống ngân hàng đang phải đối mặt với áp lực tăng vốn và nợ xấu.

“Ngân hàng cấp vốn ngắn hạn, có thể dựa vào tài sản bảo đảm và mối quan hệ riêng trong khi trái phiếu doanh nghiệp là vốn trung, dài hạn, dựa trên khế ước và sự minh bạch thông tin. Có nhiều điều cần phải làm để thị trường vốn phát triển lành mạnh, thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài, từ đó giảm gánh nặng cho hệ thống ngân hàng”, ông Ketut Ariadi Kusuma khuyến nghị.

Nhuệ Mẫn

Nguồn ĐTCK: https://tinnhanhchungkhoan.vn/tang-truong-va-hieu-qua-cua-tin-dung-post364463.html
Zalo