Tăng trưởng hai con số và Net Zero: Bài toán khó ngành điện
Tăng trưởng kinh tế kéo theo nhu cầu điện tăng cao, đặt ra bài toán khó khi vừa phải đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, vừa đạt cam kết Net Zero.

Việt Nam có nhiều tiềm năng điện tái tạo nhưng chưa biến được thành hiện thực. Ảnh: Hoàng Anh.
Bước vào “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng ít nhất 8% trong năm 2025, phấn đấu tăng trưởng đạt hai con số (trên 10%) trong nhiều năm tiếp theo, qua đó trở thành nước phát triển, có thu nhập cao.
Thực hiện mục tiêu tăng trưởng đầy tham vọng, việc đáp ứng nhu cầu tiêu thụ năng lượng là yêu cầu cần thiết. Giai đoạn 2010 – 2020, tăng trưởng GDP bình quân mỗi năm đạt khoảng 6%, trong khi nhu cầu tiêu thụ điện tăng từ 9 – 10% mỗi năm, thể hiện tương quan mạnh mẽ giữa tăng trưởng kinh tế và tiêu thụ năng lượng.
Đáng chú ý, theo PGS.TS Đặng Trần Thọ, Viện trưởng Viện Công nghệ năng lượng, những năm gần đây, ngoài một số ngành công nghiệp, sản xuất, sự bùng nổ của các ngành có mức tiêu thụ năng lượng lớn như xe điện, trung tâm dữ liệu, AI đã đẩy mạnh nhu cầu tiêu thụ năng lượng.
Điều này tạo ra sức ép khi phải đáp ứng đủ nhu cầu của nền kinh tế, song hành với đó là cắt giảm khí thải nhà kính, hướng đến Net Zero vào năm 2050, theo đúng cam kết của Chính phủ với quốc tế.
Bài toán không thể chọn một
TS. Bùi Thanh Minh, Phó giám đốc chuyên môn, Văn phòng Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV), cho biết, với giả định hệ số đàn hồi điện là 1,5, tức cứ 1% GDP tăng trưởng thì nhu cầu điện tăng 1,5%, riêng năm 2025, cần bổ sung khoảng 2.200 – 2.500MW công suất điện.
Con số này là rất áp lực đối với cả khâu đầu tư nguồn điện và đảm bảo hạ tầng lưới điện phục vụ truyền tải.
Tuy vậy, Việt Nam không thể đánh đổi Net Zero để lấy tăng trưởng kinh tế. Bởi, theo ông Minh, quá trình chuyển đổi xanh chậm trễ kéo theo một loạt rủi ro nghiêm trọng đe dọa kinh tế, xã hội và năng lực cạnh tranh quốc gia về dài hạn.
Cụ thể, một báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) chỉ ra, thiệt hại do biến đổi khí hậu, bao gồm giảm năng suất khi nhiệt độ tăng cao, tổn thất hạ tầng vì thiên tai và thiệt hại nông nghiệp, có thể lên đến hơn 9% vào năm 2035.
Đó là chưa tính đến những thiệt hại của doanh nghiệp khi không thể đáp ứng yêu cầu xanh hóa chuỗi cung ứng, dẫn đến đánh mất đối tác, nhà đầu tư, đánh mất thị trường xuất khẩu.
“Chuyển đổi xanh không còn là lựa chọn, mà trở thành điều kiện tiên quyết để duy trì lợi thế cạnh tranh quốc gia và vị thế của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực trên thị trường thế giới”, ông Minh nhấn mạnh.
Biến tiềm năng thành hiện thực
Năng lượng tái tạo được xác định là một giải pháp then chốt chuyển đổi xanh ngành năng lượng. Nhiều nghiên cứu trong nước và quốc tế đã chỉ ra, Việt Nam có tiềm năng rất lớn để phát triển năng lượng tái tạo.
Cụ thể, về năng lượng mặt trời, bức xạ trung bình tại các vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên đạt 4,6–5,2 kWh/m²/ngày, cao hơn hầu hết các quốc gia trong khu vực. Việt Nam cũng có tiềm năng kỹ thuật điện gió ngoài khơi đạt 600GW, cao nhất trong nhóm ASEAN.
Tuy vậy, theo ông Thọ, Việt Nam vẫn chưa chuyển hóa được tiềm năng thành hiện thực. Thực tế chỉ ra, dù giai đoạn 2018 – 2020 chứng kiến sự bùng nổ về điện mặt trời với 16,5GW được đưa vào khai thác nhưng từ 2021 trở đi, xu thế này chững lại do cơ chế giá FIT kết thúc và chưa có cơ chế giá phù hợp để thay thế.
Song song với đó, hơn 4.000MW điện tái tạo, bao gồm cả điện gió, điện mặt trời, đã được xây dựng xong nhưng chưa ký được hợp đồng mua bán điện hoặc bị cắt giảm công suất thường xuyên do không giải tỏa được lưới.
Với hiện trạng đó, cơ cấu năng lượng vẫn phụ thuộc chủ yếu vào nhiên liệu hóa thạch, với khoảng 45% sản lượng điện đến từ nhiệt điện than. Trong khi đó, các nguồn điện thay thế khác như điện khí, thủy điện tích năng, điện sinh khối đang trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư chưa đủ quy mô thay thế các nguồn điện truyền thống.
Thực tế này đặt ra yêu cầu cấp thiết cần phải hoàn thiện khung pháp lý về thể chế điều phối liên ngành. Cụ thể, Viện trưởng Viện Khoa học năng lượng cho biết, cần xây dựng và hoàn thiện khung chính sách toàn diện, đồng bộ, rõ ràng về chuyển dịch năng lượng đáp ứng linh hoạt với xu thế công nghệ và thị trường.
Trong đó, cần khẩn trương ban hành Luật Năng lượng tái tạo, quy định chi tiết phạm vi điều chỉnh các loại hình năng lượng tái tạo, quyền và nghĩa vụ nhà đầu tư, cơ chế cấp phép, đấu nối, lưu trữ cũng như các quy chuẩn kỹ thuật liên quan.
Có thể xem xét thành lập một ban chỉ đạo quốc gia về chuyển dịch năng lượng và trung hòa carbon, trực thuộc Chính phủ, làm nhiệm vụ điều phối liên ngành, giám sát thực hiện Quy hoạch điện VIII cũng như điều phối chương trình tài chính xanh.
Phát triển hạ tầng cũng là giải pháp cần được ưu tiên, trong đó tập trung hạ tầng đồng bộ cho cả nguồn – lưới – lưu trữ điện. Mặt khác, hoàn thiện cơ chế về chính sách giá điện và thị trường điện cạnh tranh để thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo bằng cơ chế thị trường.
Đồng tình với việc phát triển năng lượng tái tạo, Phó giám đốc Ban IV nhấn mạnh một giải pháp then chốt là giảm dần hệ số đàn hồi điện vốn đang ở mức cao.
Theo Quy hoạch điện VIII, hệ số đàn hồi điện dự báo sẽ tiếp tục giảm xuống chỉ còn khoảng 0,1 – 0,44 đến năm 2050, tức là chỉ cần tăng 0,1 – 0,44% nhu cầu điện để tạo ra 1% tăng trưởng GDP.
Muốn làm được điều này, Việt Nam cần phải chuyển dịch mô hình tăng trưởng theo hướng tập trung vào các ngành dịch vụ, công nghệ cao có giá trị gia tăng lớn và ít tiêu thụ năng lượng, đồng thời triển khai hiệu quả các giải pháp tiết kiệm điện, sử dụng điện hiệu quả.