Tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng
Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ Năm và đã được Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ ký chứng thực, có nhiều quy định mới giúp tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng, tăng khả năng chống chịu của hệ thống tổ chức tín dụng.
Nâng cao năng lực quản trị, điều hành, minh bạch hóa hoạt động của tổ chức tín dụng
Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ Năm đã khắc phục những hạn chế của Luật Các tổ chức tín dụng 2010 (Luật số 47/2010/QH12) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (Luật số 17/2017/QH14), giúp hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, hoạt động ngân hàng, cơ cấu lại tổ chức tín dụng và tăng cường bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, thanh tra, giám sát.
ĐBQH Phạm Văn Thịnh (Bắc Giang) đánh giá cao Luật đã bổ sung các công cụ bảo đảm an toàn hệ thống, như quy định về hạn mức cho vay đối với khách hàng và một nhóm khách hàng, các quy định về phòng ngừa rủi ro như phòng ngừa lợi ích nhóm, phòng ngừa thao túng ngân hàng…
Cụ thể, để nâng cao năng lực quản trị, điều hành, minh bạch hóa hoạt động của tổ chức tín dụng, hạn chế tình trạng thao túng, chi phối hoạt động của cổ đông lớn tại tổ chức tín dụng, Luật đưa ra giới hạn trần sở hữu mới tại một ngân hàng.
Theo đó, một cổ đông là cá nhân không được sở hữu cổ phần vượt quá 5% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng; một cổ đông là tổ chức không được sở hữu cổ phần vượt quá 10% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng; cổ đông và người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu cổ phần vượt quá 15% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng.
Cổ đông lớn của một tổ chức tín dụng và người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu cổ phần từ 5% vốn điều lệ trở lên của một tổ chức tín dụng khác (Điều 63).
Luật còn quy định trách nhiệm công bố, công khai thông tin của cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng trở lên, người quản lý, người điều hành của tổ chức tín dụng (Điều 49); bổ sung, bảo đảm quyền của cổ đông thiểu số; sửa đổi, bổ sung các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện người quản lý, điều hành, nâng cao tính độc lập, chuyên trách của thành viên Hội đồng Quản trị độc lập; thành viên Ban kiểm soát; tăng số lượng tối thiểu thành viên Ban kiểm soát của ngân hàng thương mại, sửa đổi, bổ sung để tăng cường trách nhiệm của Ban kiểm soát của tổ chức tín dụng... (Điều 50, Điều 51…).
ĐBQH Lương Văn Hùng (Quảng Ngãi)cho rằng, mục đích của việc điều chỉnh tỷ lệ là nhằm hạn chế việc tập trung nguồn vốn cấp tín dụng cho một hạng mục nhóm khách hàng duy nhất, từ đó sẽ phân tán được rủi ro.
Ngoài ra, điều này còn giúp cho nhiều chủ thể của nền kinh tế có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn của các tổ chức tín dụng, làm đa dạng hóa việc sử dụng nguồn vốn, chứ không chỉ là một số đối tượng khách hàng nhất định mới có thể tiếp cận được nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng.
Cùng với quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần và các quy định khác về tổ chức, quản trị, điều hành tổ chức tín dụng, quy định về hạn chế cấp tín dụng (Điều 135) và giới hạn cấp tín dụng (Điều 136) của Luật mới là những biện pháp cần thiết nhằm hạn chế tình trạng tập trung cấp tín dụng đối với một khách hàng, một khách hàng và người có liên quan, cho vay “sân sau”, giúp phân tán rủi ro cho tổ chức tín dụng trong hoạt động và tăng khả năng tiếp cận tín dụng của các khách hàng khác.
Nhằm tránh tác động đột ngột đến hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Luật mới đã quy định rõ lộ trình giảm dần giới hạn cấp tín dụng trong 5 năm từ thời điểm Luật có hiệu lực đến năm 2029. Việc quy định giới hạn cụ thể trong Luật là kế thừa từ Luật hiện hành, nhằm tạo cơ sở cho các tổ chức tín dụng có những bước điều chỉnh dần phù hợp.
ĐBQH Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) nhấn mạnh, việc giới hạn cấp tín dụng là rất cần thiết; quy trình rất cụ thể, rõ ràng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng sở hữu chéo và đối với đối tượng của ngân hàng là vay được nhiều tổ chức tín dụng. Đại biểu cũng thống nhất với quy định về lộ trình thực hiện, từ khi luật có hiệu lực tới năm 2029, nhằm bảo đảm minh bạch, rõ ràng, tránh tác động đột ngột đến hoạt động tổ chức tín dụng của ngân hàng và các tín dụng khác.
Ứng phó kịp thời khi phát sinh trường hợp tổ chức tín dụng cần được can thiệp sớm
Để bảo đảm có cơ chế ứng phó kịp thời khi phát sinh trường hợp tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt, có nguy cơ ảnh hưởng, đe dọa an toàn hệ thống, Luật đã bổ sung quy định về các biện pháp xử lý khi có sự cố rút tiền hàng loạt.
Luật cũng kế thừa quy định về áp dụng can thiệp sớm tại Luật hiện hành và có sửa đổi, bổ sung để giải quyết những bất cập thời gian qua.
Theo đó, Luật xây dựng mới quy trình can thiệp sớm, bổ sung thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước tại giai đoạn can thiệp sớm, quy định một số biện pháp hiện đang áp dụng tại giai đoạn kiểm soát đặc biệt lên giai đoạn can thiệp sớm cho phép xử lý từ sớm, từ xa khi tình trạng yếu kém của tổ chức tín dụng chưa đến mức nghiêm trọng. Trong quá trình thanh tra, giám sát đối với các tổ chức tín dụng, căn cứ kết quả giám sát, thanh tra, tùy theo mức độ, vấn đề gặp phải của từng tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp phù hợp như khuyến nghị, cảnh báo, giám sát tăng cường, can thiệp sớm, kiểm soát đặc biệt.
Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) quy định rõ các trường hợp can thiệp sớm tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng như trường hợp phải kiểm soát đặc biệt.
Theo Điều 156 của Luật mới, các tổ chức tín dụng được can thiệp sớm khi số lỗ lũy kế của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài lớn hơn 15% giá trị của vốn điều lệ, vốn được cấp và các quỹ dự trữ ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất hoặc theo kết luận thanh tra, kiểm toán của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và vi phạm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu; xếp hạng dưới mức trung bình theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước; vi phạm tỷ lệ khả năng chi trả quy định tại điểm a khoản 1 Điều 138 của Luật này trong thời gian 30 ngày liên tục; vi phạm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu quy định tại điểm b khoản 1 Điều 138 của Luật này trong thời gian 6 tháng liên tục; bị rút tiền hàng loạt và có báo cáo gửi Ngân hàng Nhà nước.
Các tổ chức tín dụng cần được can thiệp sớm được hỗ trợ bởi một số biện pháp như: thay đổi cách tính số dự phòng rủi ro bằng tối đa số chênh lệch thu - chi trong năm của tổ chức tín dụng; đồng thời, phải thuyết minh chi tiết số dự phòng thực tế và chênh lệch với số tối đa này trong báo cáo tài chính.
Lãnh đạo của các ngân hàng đang gặp khó khăn phải chịu trách nhiệm cho hậu quả và giảm thiểu rủi ro đạo đức trong hệ thống ngân hàng, không sử dụng nguồn lực của Chính phủ hoặc của ngân hàng khác để giải quyết khó khăn. Ngân hàng Nhà nước vẫn bảo đảm ngăn chặn nguy cơ rút tiền gửi hàng loạt.
Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế, Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) đã bổ sung quy định yêu cầu các ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải xây dựng phương án khắc phục dự kiến trong các trường hợp bị can thiệp sớm. Theo đó, khi tổ chức tín dụng có vấn đề phát sinh thì triển khai ngay các giải pháp cần thiết, bảo đảm tính kịp thời. Đại biểu Phạm Văn Hòa nhìn nhận, quy định về vấn đề can thiệp sớm của tổ chức tín dụng và các ngân hàng của nước ngoài rất nhân văn.