Tăng cường quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế
Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV nêu rõ quan điểm chỉ đạo: “Tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên”. Liên quan đến nội dung này, Báo SGGP đã có cuộc phỏng vấn Thiếu tướng, PGS-TS Nguyễn Văn Sáu, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Lịch sử quốc phòng Việt Nam, Bộ Quốc phòng.

Thiếu tướng, PGS-TS Nguyễn Văn Sáu, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Lịch sử quốc phòng Việt Nam, Bộ Quốc phòng
Sức mạnh tổng hợp quốc gia trong giai đoạn hội nhập
* Phóng viên: Thưa Thiếu tướng, đồng chí đánh giá như thế nào về quan điểm chỉ đạo trong Dự thảo Báo cáo chính trị: “...tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên”?
- Thiếu tướng, PGS-TS NGUYỄN VĂN SÁU: Việc Đảng ta bổ sung “đối ngoại, hội nhập quốc tế” vào nhóm nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên bên cạnh quốc phòng, an ninh phản ánh một bước phát triển mang tính lý luận và thực tiễn rất quan trọng trong tư duy lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Chúng ta kế thừa và vận dụng sâu sắc tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, lấy đối ngoại làm kênh chủ động tạo thế, giữ hòa bình, tranh thủ nguồn lực cho phát triển. Quan điểm mới này phù hợp với định hướng: Bảo vệ Tổ quốc phải được hiểu là bảo vệ cả chế độ, lợi ích quốc gia - dân tộc, hòa bình, ổn định và môi trường phát triển.
Thực tiễn hơn ba thập niên đổi mới đã chứng minh: Hội nhập quốc tế sâu rộng là nguồn lực to lớn thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Trong bối cảnh thế giới biến động nhanh, phức tạp, thì đối ngoại không chỉ là kênh hợp tác mà còn là tuyến phòng thủ chiến lược, giúp ngăn ngừa xung đột, giữ môi trường hòa bình, bảo vệ lợi ích quốc gia từ xa.
Thực tiễn cũng cho thấy quốc phòng - an ninh - đối ngoại ngày càng liên kết chặt chẽ: Quốc phòng mạnh giúp đối ngoại có thế; đối ngoại khôn khéo giúp quốc phòng không phải đối đầu; còn an ninh vững chắc là nền tảng cho cả hai. Sự bổ sung này thể hiện rõ đường lối chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, hiệu quả, gắn chặt đối ngoại với quốc phòng, an ninh, với phát triển kinh tế - xã hội.
* Thiếu tướng có thể làm rõ thêm nội dung về cấu trúc mới, gồm: “quốc phòng, an ninh” và “đối ngoại, hội nhập quốc tế”, liệu sự kết hợp này có giúp Việt Nam nâng cao khả năng ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống?
- Việc Đảng ta xác lập cấu trúc mới gồm “quốc phòng, an ninh” và “đối ngoại, hội nhập quốc tế” là sự thống nhất về chiến lược, dựa trên nhận thức: Bảo vệ Tổ quốc thời bình phải kết hợp chặt chẽ sức mạnh quân sự hay an ninh truyền thống với sức mạnh của đối ngoại và hội nhập quốc tế. Mối quan hệ tương hỗ này thể hiện rõ nhất ở ba lĩnh vực:
Thứ nhất, trong bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia từ sớm, từ xa. Quốc phòng, an ninh tạo thế và lực bên trong; đối ngoại, hội nhập quốc tế mở không gian và bạn bè bên ngoài. Hai mặt này gắn bó chặt chẽ, bổ sung cho nhau: ngoại giao giúp ngăn ngừa xung đột, quốc phòng giúp răn đe, bảo vệ hòa bình. Ví dụ, trong vấn đề Biển Đông, chúng ta kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền bằng biện pháp hòa bình, dựa trên luật pháp quốc tế, đồng thời tăng cường quốc phòng, củng cố thực lực, xây dựng lòng tin chiến lược với các đối tác.
Thứ hai, trong hợp tác quốc tế về an ninh phi truyền thống. Những thách thức như không gian mạng, khủng bố xuyên quốc gia, biến đổi khí hậu… không thể giải quyết đơn lẻ bằng sức mạnh trong nước. Ở đây, đối ngoại và hội nhập quốc tế là cầu nối giúp Việt Nam tham gia các mạng lưới hợp tác an ninh toàn cầu, chia sẻ thông tin, công nghệ. Sự kết hợp này tạo nên một “lá chắn kép”: vừa dựa vào sức mạnh nội sinh, vừa phát huy sức mạnh hợp tác quốc tế.
Thứ ba, trong phát triển bền vững gắn với bảo đảm an ninh kinh tế và an ninh xã hội. Đối ngoại mở đường cho đầu tư, thương mại, khoa học - công nghệ; quốc phòng và an ninh bảo đảm môi trường ổn định, trật tự, an toàn để phát triển. Hai lĩnh vực này bổ trợ lẫn nhau như “hai cánh của một con chim”, giúp đất nước bay cao mà vẫn vững hướng. Sự kết hợp giữa “quốc phòng, an ninh” và “đối ngoại, hội nhập quốc tế” chính là sự kết hợp giữa “sức mạnh cứng” và “sức mạnh mềm”, giữa nội lực và ngoại lực, giúp Việt Nam không chỉ ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh phi truyền thống mà còn chủ động tạo lập môi trường phát triển an toàn, bền vững, lâu dài cho đất nước.

Các nữ chiến sĩ gìn giữ hòa bình diễu hành qua Quảng trường Ba Đình tại lễ kỷ niệm Quốc khánh 2-9. Ảnh: ĐỖ TRUNG
Quốc gia độc lập, tự chủ, nhân văn và có trách nhiệm với thế giới
* Cùng với tăng cường quốc phòng - an ninh, đối ngoại - hội nhập quốc tế là một trong những yếu tố phát huy toàn diện “sức mạnh mềm” của đất nước. Ở góc độ nghiên cứu chiến lược, Thiếu tướng có thể phân tích rõ hơn nội hàm “sức mạnh mềm” của Việt Nam trong giai đoạn mới?
- Về nội hàm, “sức mạnh mềm” của đất nước ta có thể hiểu theo ba tầng giá trị lớn:
Thứ nhất, là sức mạnh của giá trị và bản sắc Việt Nam. Đó là tư tưởng, văn hóa, lịch sử, truyền thống, bản lĩnh và đạo lý của dân tộc Việt Nam - yêu chuộng hòa bình, nhân nghĩa, thủy chung, kiên cường mà mềm dẻo. Chính những giá trị này đã giúp Việt Nam “lấy chí nhân thay cường bạo”, được bạn bè quốc tế tôn trọng và ủng hộ. Trong giai đoạn mới, khi chúng ta quảng bá văn hóa, gìn giữ tiếng Việt, lan tỏa tinh thần “Việt Nam yêu hòa bình, độc lập, hợp tác và phát triển”, đó chính là phát huy “sức mạnh mềm” văn hóa - tinh thần.
Thứ hai, là sức mạnh của uy tín và vị thế quốc gia. Việt Nam ngày nay không chỉ được biết đến là một dân tộc anh hùng, mà còn là một đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Thành công trong đối ngoại đa phương, vai trò tại ASEAN, Liên hiệp quốc, hay trong các sáng kiến về hòa bình, hợp tác khu vực… đều là biểu hiện cụ thể của “sức mạnh mềm” chính trị - ngoại giao. Uy tín quốc tế không chỉ là hình ảnh, mà là nguồn lực chiến lược, giúp Việt Nam mở rộng không gian phát triển, tạo lòng tin và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế trong các vấn đề hệ trọng.
Thứ ba, là sức mạnh của mô hình phát triển và con người Việt Nam. Một Việt Nam ổn định chính trị, phát triển năng động, hội nhập sâu rộng, gắn tăng trưởng với công bằng xã hội và bảo vệ môi trường chính là thông điệp hấp dẫn đối với thế giới. Trong đó, con người Việt Nam thông minh, nhân ái, sáng tạo, có tinh thần cống hiến và hội nhập chính là nguồn “tài nguyên mềm” quý giá nhất. “Sức mạnh mềm” của Việt Nam trong giai đoạn mới chính là sức mạnh của văn hóa, của niềm tin, của bản sắc và uy tín quốc gia, được vận dụng để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, đồng thời khẳng định vị thế Việt Nam là một quốc gia độc lập, tự chủ, nhân văn và có trách nhiệm với thế giới.
* Trong công tác tuyên truyền, chúng ta cần nhấn mạnh điểm gì để cán bộ, chiến sĩ và nhân dân hiểu rõ tư duy mới của Đảng về kết hợp quốc phòng - an ninh - đối ngoại?
- Trong công tác tuyên truyền trước, trong và sau Đại hội XIV của Đảng, điểm cần nhấn mạnh nhất là giúp cán bộ, chiến sĩ, nhân dân nhận thức sâu sắc tư duy mới của Đảng: Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới không chỉ là nhiệm vụ của quốc phòng và an ninh mà còn là sự nghiệp tổng hợp, trong đó đối ngoại và hội nhập quốc tế giữ vai trò ngày càng quan trọng.
Với cán bộ, chiến sĩ, phải thấy rằng bảo vệ Tổ quốc hôm nay không chỉ là “giữ đất, giữ trời” mà còn là giữ hòa bình, giữ bạn bè, giữ môi trường phát triển. Với nhân dân, cần hiểu rằng mỗi hành động đúng đắn, văn minh, có trách nhiệm của người dân trong hội nhập quốc tế cũng là góp phần bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, điểm cốt lõi của công tác tuyên truyền lần này là làm cho toàn dân, toàn quân hiểu rõ: sức mạnh bảo vệ Tổ quốc hôm nay là sức mạnh tổng hợp của “ý Đảng - lòng dân - sức quân - thế bạn”, trong đó quốc phòng, an ninh và đối ngoại là ba trụ cột gắn bó, tương hỗ, cùng hướng tới mục tiêu vững chắc Tổ quốc, chủ động hội nhập, phát triển bền vững.
































