Tầm quan trọng của việc phát triển các học thuyết nhân tài để hỗ trợ quá trình phát triển
Mùa khai giảng năm nay có một ý nghĩa rất quan trọng khi trùng với cột mốc 80 năm kỷ niệm ngày độc lập dân tộc và là điểm khởi đầu cho kế hoạch 20 năm sắp tới.
2025-2045 là giai đoạn quan trọng với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển. Khi đó, yêu cầu cấp bách cần đặt ra là ngành giáo dục làm sao quy tụ và phát triển được nguồn nhân lực chất lượng cao để đón đầu con sóng công nghệ của thời đại.

Nếu Việt Nam tiếp tục đánh giá nhân lực chủ yếu qua bằng cấp bốn năm học đại học, chính sách nhân tài sẽ thiếu hiệu quả đi rất nhiều. Ảnh: T.L
Trong hai năm qua, trung ương đã ban hành liên tiếp những nghị quyết có tầm vóc đột phá, trải rộng từ khoa học công nghệ, kinh tế tư nhân, hội nhập quốc tế cho tới cải cách pháp luật. Các văn kiện này cùng nhau dựng nên ba trục định hướng chiến lược, bao gồm chuyển nền kinh tế sang mô hình số dựa trên đổi mới sáng tạo, khuyến khích khu vực tư nhân và dòng vốn quốc tế trở thành động lực tăng trưởng chính, đồng thời hoàn thiện thể chế pháp lý để bảo đảm phát triển bền vững.
Nhìn từ góc độ phát triển, chuỗi chính sách ấy chẳng khác nào một tuyến đường cao tốc kinh tế xã hội vừa mở ra. Nhưng tuyến đường ấy sẽ không phát huy hết công năng nếu thiếu người tài đủ sức cầm lái, thế hệ có thể biến văn kiện nghị quyết thành hành động để hiện thực hóa mục tiêu.
Bối cảnh thị trường quốc tế đang thúc ép Việt Nam phải chạy nhanh hơn bao giờ hết cho việc phát triển nền tảng nguồn nhân lực. Intel, Apple, Samsung và Nvidia liên tục mở rộng cơ sở sản xuất cũng như trung tâm nghiên cứu tại Việt Nam, kéo theo nhu cầu nhân lực chất lượng cao từ kỹ sư vi mạch, chuyên gia trí tuệ nhân tạo (AI) cho đến chuyên viên an ninh mạng tăng vọt.
Một kỹ sư chip ở TPHCM nay có thu nhập bằng khoảng 70% đồng nghiệp tại Đài Loan, cho thấy sức cạnh tranh ngày càng rõ nét nhưng đồng thời cũng phản ánh nguy cơ chảy máu chất xám trong khu vực. Trong khi đó, chỉ số năng lực cạnh tranh nhân tài toàn cầu vẫn xếp Việt Nam ở nhóm trung bình thấp, đặc biệt ở hạ tầng giáo dục và khả năng thu hút chuyên gia quốc tế. Nếu những khoảng trống kỹ năng không được khắc phục kịp thời, cơ hội vươn mình rất có thể sẽ rơi vào tay các quốc gia láng giềng.
Khoảng trống nhân tài trước yêu cầu của các nghị quyết
Những định hướng vĩ mô vừa trình bày giống như bản thiết kế cơ sở cho con đường phát triển của quốc gia trong 20 năm tới. Các khung ý tưởng đã rõ ràng, nguồn vốn đầu tư đã sẵn có, quyết tâm chính trị cao hơn bao giờ hết... nhưng hơn hết chất lượng nguồn lực để thực thi các nghị quyết đó mới là yếu tố quyết định tính thành công. Để thấy rõ khoảng cách giữa tham vọng quốc gia và năng lực hiện hữu thì chúng ta cần nhìn lại những đánh giá về nguồn lực hiện tại quốc gia đang có.
Theo ước tính của Bộ Khoa học và Công nghệ, để hiện thực hóa mục tiêu kinh tế số chiếm 30% GDP, Việt Nam cần bổ sung khoảng 700.000 nhân lực công nghệ mới, trong khi nguồn cung hiện tại chỉ đáp ứng khoảng 500.000-530.000 người. Lĩnh vực AI còn lệch pha hơn khi chỉ tỷ trọng nhỏ trong các chương trình đại học có tích hợp nội dung đào tạo vào năm 2025, buộc sinh viên phải tự học các khóa ngắn hạn bên ngoài thì mới đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng.
Không chỉ thiếu hụt về số lượng, Việt Nam còn gặp vấn đề về chất lượng. Khảo sát nhân lực năm 2025 cho thấy 77% doanh nghiệp tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, riêng ngành công nghệ thông tin là 81%, gặp khó khăn trong việc tuyển dụng nhân sự giỏi. Các nhà tuyển dụng FDI nhận xét rằng ứng viên Việt Nam thường nắm vững thuật toán nhưng lại yếu ở kỹ năng thuyết trình đa văn hóa, quản trị dự án linh hoạt và tiếng Anh chuyên ngành. Trong khi đó, Nghị quyết 59 đặt trọng tâm vào hội nhập sâu, đòi hỏi lực lượng lao động đủ khả năng dẫn dắt các dự án xuyên biên giới.
Thách thức còn đến từ sự mất cân đối về phân bổ nhân lực. Hiện nay, Hà Nội và TPHCM chiếm tỷ trọng lớn các trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D), trong khi các tỉnh thành còn lại hầu như vắng bóng chuyên gia chuyển đổi số. Điều này khiến nhiều dự án và hạ tầng dữ liệu địa phương khó có thể hiện thực hóa, đặt ra dấu hỏi lớn với yêu cầu đồng bộ pháp luật số trong Nghị quyết 66.
Nguy cơ thiếu hụt kỹ năng sẽ khiến các nghị quyết phát huy tác dụng mạnh mẽ ở đô thị lớn nhưng lại không hiệu quả ở địa phương, trừ khi mô hình Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC) được nhân rộng thành chuỗi vệ tinh vùng để thu hút và phân bổ lại nguồn nhân lực kỹ thuật số. Trong khi đó, Nghị quyết 68 kêu gọi doanh nghiệp tư nhân tăng đầu tư R&D lên 2% doanh thu, nhưng các chỉ tiêu này rất khó có thể đạt được trong ngắn và trung hạn nếu chúng ta không có những chính sách đột phá về nguồn nhân lực và nhân tài.
Các tiêu chí định nghĩa nhân tài 4.0
Bức tranh thiếu hụt ở trên khẳng định một điều: nếu chỉ vá lỗi bằng các khóa đào tạo ngắn hạn và chính sách lương bổng rời rạc, Việt Nam sẽ mãi ở thế bị động, chạy theo công nghệ thay vì tham gia vào nhóm các quốc gia dẫn dắt. Điều cần thiết lúc này là một khung tư duy hoàn toàn mới về định nghĩa nhân tài trong thời đại mới này. Định nghĩa về nhân tài, cách thức phát triển, đo lường, nuôi dưỡng... cho đến việc thu hút và giữ chân họ đóng vai trò tiên quyết. Tất cả những vấn đề trên cần được phát triển một cách có hệ thống thành một học thuyết nhân tài, dành riêng cho điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam.


Khung năng lực cho nhân tài trong thời đại mới là sự kết hợp của những giá trị truyền thống của khung năng lực truyền thống và những điều chỉnh trong các tiêu chí mới được toàn cầu thừa nhận trong những năm qua. Trên cơ sở đó, bộ tiêu chí chi tiết được thiết kế gồm năm yếu tố: (1) kỹ năng cốt lõi như tư duy dữ liệu và lập trình đa nền; (2) kỹ năng tư duy như sáng tạo, tư duy hệ thống và giải quyết vấn đề phức tạp; (3) kỹ năng hỗ trợ gồm giao tiếp đa văn hóa, lãnh đạo và quản trị cảm xúc; (4) tốc độ học tập suốt đời, đo bằng thời gian đạt chuẩn một kỹ năng mới; (5) đóng góp xã hội với trọng tâm đạo đức công nghệ và ESG.
Chấm điểm trên thang 0-100, bộ tiêu chí này vừa giúp Chính phủ thiết kế chính sách visa và ngân sách đào tạo, vừa giúp doanh nghiệp xác định lương thưởng, còn trường đại học định hình lại chương trình giảng dạy.
Các tiêu chí nói trên sẽ được xác định rõ các cấp độ cụ thể để hỗ trợ việc định hướng triển khai đo lường. Cấp độ 1 là giai đoạn người lao động có thể thực hiện các thao tác bảng tính, tuân thủ quy trình, giao tiếp nội bộ, học kỹ năng mới chậm và chỉ dừng ở tuân thủ. Cấp độ 2 yêu cầu người lao động có thể làm nội dung trình bày, đề xuất sáng kiến nhỏ, thuyết trình song ngữ, lĩnh hội kỹ năng mới trong 9-12 tháng và chủ động tránh rủi ro đạo đức.
Cấp độ 3 yêu cầu khả năng tạo giá trị: phân tích dữ liệu, thiết kế giải pháp hệ thống, điều phối dự án đa phòng ban, học kỹ năng mới trong 6-9 tháng và tham gia trách nhiệm xã hội. Cấp độ 4 sẽ hướng đến khả năng xây dựng mô hình AI hoàn chỉnh, thiết kế sản phẩm đột phá, lãnh đạo nhóm đa quốc tịch, tự nâng cấp kỹ năng chỉ trong 3-6 tháng và lồng ESG vào quy trình. Cuối cùng cấp độ 5 dành cho giới tinh hoa với khả năng phát minh thuật toán, định hình xu hướng ngành, tạo ảnh hưởng toàn cầu, học kỹ năng mới trong dưới ba tháng và đặt ra chuẩn đạo đức cho cộng đồng.
Thực tế, vòng đời kỹ năng toàn cầu đã rút ngắn còn 12-18 tháng. Nếu Việt Nam tiếp tục đánh giá nhân lực chủ yếu qua bằng cấp bốn năm học đại học, chính sách nhân tài sẽ thiếu hiệu quả đi rất nhiều. Các quốc gia như Mỹ, Singapore, UAE đã triển khai khung Skills Framework 4.0 để gắn đào tạo với cấp visa vàng và ưu đãi thuế. Nếu không xây dựng lý thuyết bản địa, Việt Nam sẽ buộc phải sao chép chuẩn ngoại, dễ lệch pha văn hóa giáo dục và xa rời mục tiêu mà bốn nghị quyết trung ương đã đặt ra.
Bốn trụ cột nghị quyết đã mở ra đường cao tốc trong phát triển kinh tế số, động lực tư nhân, hội nhập quốc tế và pháp luật tiến bộ. Nhưng cao tốc ấy chỉ vận hành khi lực lượng nguồn nhân lực chất lượng cao đủ mạnh và phủ khắp các tỉnh thành. Khoảng trống trong đào tạo nguồn nhân lực, thiếu kỹ năng mềm và bất cân xứng vùng miền hiện là ba nút thắt cần tháo gỡ hơn bao giờ hết. Bộ tiêu chí năng lực 4.0 cùng bảng năm cấp độ thực hiện giúp cung cấp thước đo thống nhất để Chính phủ hoạch định chính sách, doanh nghiệp tuyển dụng và trường đại học cập nhật chương trình, tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước.
(*) CFA