Tấm lòng thầy, cô giáo vùng sạt lở núi Đà Nẵng
Kỷ niệm Ngày Nhà giáo năm nay (20/11), các thầy, cô giáo nơi vùng cao biên giới thành phố Đà Nẵng đang đối mặt với muôn vàn gian khó do bão, lũ sạt lở bủa vây. Khó khăn, hiểm nguy là vậy mà họ vẫn âm thầm giữ chân học trò, không để 'con chữ' bị vùi lấp, cuốn trôi.
Vụ sạt lở núi vừa xảy ra ở thôn Pứt, xã vùng cao biên giới Hùng Sơn, thành phố Đà Nẵng làm 3 người mất tích khiến thầy giáo Cơlâu Nghiếu, trường PTDT bán trú tiểu học Tr’hy nhớ lại lần thoát chết. Năm ngoái, cũng sau đợt mưa lớn kéo dài, nhiều học sinh không đến lớp, thầy Clâu Nghiếu đã lội bộ, vượt núi, băng qua những cung đường dốc núi cheo leo, ngập ngụa bùn lầy để đến thôn A Riêu cách trường học 12 km, vận động học sinh ra lớp. Sau hơn 3 giờ vượt rừng, bất chợt thầy Nghiếu nghe tiếng nổ lớn phát ra từ ngọn núi bên đường, đất đá từ trên núi cao đổ xuống ầm ầm. Nhờ chạy nhanh ra khỏi khu vực nguy hiểm nên thầy Cơlâu Nghiêu thoát chết trong gang tấc.

Cô giáo và học trò vùng cao Đà Nẵng
“Trên đường đi bị sạt lở nhiều chỗ, nhiều đoạn đường không thể đem xe máy qua nên phải đi bộ gần 8 cây số. Có một lần sạt lở từ trên núi xuống, mình cũng la hét bỏ chạy. Cho dù là khó khăn như thế, mình vẫn quyết tâm đi vì thương học trò của mình”, thầy Cơlâu Nghiêu chia sẻ.
Là người con núi rừng Cơ Tu, sinh ra và trưởng thành nơi vùng cao biên giới, thầy Cơlâu Nghiếu thấu hiểu cái nghèo, cái khó của bà con dân làng. Hơn 11 năm gắn bó với giáo dục nơi biên giới, thầy Nghiếu không nhớ nổi mình đã bao nhiêu lần bỏ xe giữa đường để vượt suối, băng rừng, lội bộ qua những dốc núi dựng đứng, kiên trì vận động, đưa đón học sinh đến lớp. Những năm gần đây, mưa lũ bất thường, sạt lở núi ngày càng dữ dội, con đường tới trường của thầy trò vùng cao càng thêm gập ghềnh, nguy hiểm. Với tình yêu nghề, mến trẻ, thầy Nghiêu vẫn thường xuyên đưa đón học sinh ra lớp, giữ chân các em trên con đường học hành.

Giáo viên cùng học trò vùng cao Đà Nẵng
Thầy giáo Lưu Hoàng Thương rất cảm phục trước sự tận tụy của thầy giáo Nghiếu: “Thầy Nghiếu đi bộ qua rất nhiều điểm sạt lở, các đoạn đường bị nứt, gãy và không biết tụt đất xuống lúc nào. Dù vậy, vì học sinh, thầy Nghiếu và các thầy cô vẫn luôn cố gắng vận động học sinh để các em học tốt”.
Không sinh ra ở vùng cao biên giới nhưng từ lâu cô Huỳnh Thị Yên (quê thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam cũ) vẫn chọn huyện miền núi cao Tây Giang, tỉnh Quảng Nam cũ làm quê hương thứ 2 của mình. Sau khi tốt nghiệp ngành Sư phạm, năm 2014, cô Yên tình nguyện lên công tác tại vùng cao biên giới này. Nhiều đêm nằm nghe gió rít liên hồi qua phên cửa lẫn tiếng côn trùng rả rích, cô Yên không sao chợp mắt, nỗi nhớ nhà thêm cồn cào. Hàng ngày, nhìn thấy các em học trò áo quần nhàu nát, đầu trần, chân đất lội bộ hàng giờ đến lớp trong cái lạnh tê tái của mùa đông vùng cao khiến cô cảm thấy chạnh lòng, yêu thương các em nhiều hơn.

Học trò vùng cao biên giới Đà Nẵng trong niềm vui đến trường
Cô Huỳnh Thị Yên, giáo viên trường phổ thông dân tộc bán trú THCS Lý Tự Trọng tâm sự: “Mùa mưa bão sạt lở thì phải ăn cá khô. Còn việc vận động học sinh thì cũng gặp nhiều khó khăn. Thường chúng tôi đi xe máy, đoạn nào không đi được xe thì đi bộ vô thôn, đi và về có khi cả ngày”.
Xã biên giới Hùng Sơn, thành phố Đà Nẵng có 41 điểm trường với 82 lớp học và gần 1.700 học sinh các cấp, đa phần là học sinh người Cơ Tu. Đời sống của gia đình các em rất khó khăn. Vào mùa mưa bão, sạt lở bủa vây, nhiều em có ý định bỏ học ở nhà phụ giúp ba mẹ việc nương rẫy. Thế nhưng, nhờ sự quan tâm động viên, giúp đỡ của các thầy, các cô, nhiều em đã vượt qua chính mình, tiếp tục đeo đuổi con đường học hành.

Học trò vùng cao Đà Nẵng đến trường mùa lũ
Em Cơlâu Thị Huyền, học sinh trường PT DT bán trú Tiểu học Tr’Hy bày tỏ sự biết ơn đối với các thầy, cô giáo của mình như thế này: “Thầy, cô ở đây rất tận tình chăm sóc bọn con. Mùa sạt lở, thầy, cô đến tận nhà vận động các con đi học. Mấy bạn ở xa, thầy, cô đi chở để không mất chương trình học. Thầy, cô dạy chúng con rất nhiều thứ để chúng con nên người. Đặc biệt, nhiều bạn khó khăn hay nghỉ học thì thầy, cô cho quần áo, sách vở để các bạn đi học”.
Ông Nguyễn An, Bí thư Đảng ủy xã Hùng Sơn cho biết, trên địa bàn xã có 175 giáo viên, trong đó 23 người từ đồng bằng lên đây giảng dạy. Các giáo viên miền xuôi hay miền ngược, mỗi người một hoàn cảnh nhưng các thầy, cô giáo đều có chung niềm đam mê, tình yêu nghề, mến trò, không ngại khó, ngại khổ, đưa cái chữ đến tận những thôn xa, bản vắng.

Thầy giáo vùng cao động viên phụ huynh cho con đến trường
“Với đặc thù là một xã vùng cao biên giới, vùng dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn thì các giáo viên đã phát huy hết tinh thần trách nhiệm của một người thầy giáo. Ngoài việc dạy học thì thầy, cô ở miền núi giống như cha mẹ hiền, chăm lo cho các cháu từ ăn, ở, đặc biệt là các cháu nội trú. Thầy, cô cũng góp phần cùng địa phương thực hiện tốt các công tác xã hội khác. Ví dụ như mùa mưa lũ năm nay, thầy, cô tham gia nấu ăn, chăm lo cho bà con vùng sạt lở khi di dời, tham gia dọn vệ sinh trường lớp, đường giao thông”, ông Nguyễn An cho hay.
Những năm gần đây, giáo dục vùng cao thành phố Đà Nẵng từng bước khởi sắc. Đằng sau những thành quả ấy là sự cống hiến và sự hy sinh thầm lặng của các thầy, cô cắm bản như thầy Nghiếu, cô Yên cùng nhiều thầy, cô giáo khác.

Món quà học sinh vùng cao dành tặng thầy, cô giáo

Học trò vùng cao hái hoa rừng tặng cô giáo
Mới đây, cùng với cả nước, thành phố Đà Nẵng đã đồng loạt khởi công xây dựng 6 trường học ở vùng cao biên giới. Ông Trần Anh Tuấn, Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng cho biết, những ngôi trường này khi đưa vào sử dụng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện và cải thiện đáng kể điều kiện dạy học ở vùng cao biên giới.
“Trường của chúng ta định khung là trường ở miền núi, biên giới nội trú và bán trú; công năng sử dụng thì phải tính đến yếu tố nhà công vụ cho thầy cô giáo, những người chưa có nhà cửa ở đây”, ông Trần Anh Tuấn chia sẻ.





























