Sừng sững Cao Muôn
Sương sớm phủ trên những mái nhà tựa vào nhau bên triền núi, rừng keo xanh và lúa rẫy vào mùa mới. Ðàn trâu lững thững bên thung lũng, trên thảo nguyên Bùi Hùi, bên dòng sông Liên hiền hòa, bình yên. Sông Liên, sông Re, sông Vực Liêm như dòng chảy ký ức chứa trong lòng biết bao trầm tích về những năm tháng gian lao và anh dũng của đồng bào dân tộc vùng cao huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi. Núi Cao Muôn hùng vĩ, nơi khơi nguồn ngọn lửa cách mạng từ 80 năm trước.

Phát huy truyền thống cách mạng, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi gìn giữ văn hóa giàu bản sắc.
Núi Cao Muôn cao vời vợi, một mầu xanh bạt ngàn của rừng bao phủ. Năm tháng cũ hằn in lên những cánh rừng, ngọn núi, làng bản vô vàn câu chuyện thời kháng chiến. Ngước nhìn lên tượng đài Khởi nghĩa Ba Tơ sừng sững giữa trung tâm vùng An toàn khu Ba Tơ, nhắc nhớ những năm tháng hào hùng.
“Hy sinh vì Tổ quốc”, lời thề trên núi Cao Muôn của Ðội du kích Ba Tơ huyền thoại vẫn như vang vọng giữa đại ngàn. Trường An, Suối Loa, Nước Lá… cùng những di tích lịch sử vẫn sáng ngời qua năm tháng. Tình quân dân đồng sức, đồng lòng cùng lời thề kháng chiến dưới tán rừng ở Nước Sung, hòa quyện với tình yêu quê hương, thôn bản của đồng bào các dân tộc trên non cao Ba Tơ.
Ký ức nơi khởi nguồn cách mạng
Trên miền quê đầy sức sống hôm nay, tám mươi năm trước là vùng chiến địa ác liệt. Chiến khu núi Cao Muôn, Khúc sông Liên, Lò gạch Nước Năng, Chòi canh Suối Loa, Ðồn Ba Tơ… là những di tích lịch sử cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ, từng in dấu chân của đoàn quân du kích một thời lửa đạn. Ði theo cách mạng, những người con Hrê sáng mãi tinh thần quật khởi giữa núi rừng vì độc lập, tự do.
Vùng chiến địa xưa còn in đậm trong những trang sử oanh liệt một thời giữ nước. Ngược dòng lịch sử 80 năm trước, ngày 11/3/1945, khi sương mai chưa tan trên các triền núi, giữa thung lũng Trường An tiếng trống, tiếng mõ nổi lên chấn động cả một vùng núi rừng.
Tại chòi canh Suối Loa, trưa 11/3/1945, phương án, kế hoạch khởi nghĩa bằng lực lượng vũ trang cùng tinh thần quật khởi của quân và dân miền cao Ba Tơ được dấy lên. Ðến tối 11/3, đoàn quân khởi nghĩa cùng quần chúng nhân dân tiến về đánh chiếm đồn Ba Tơ, giải phóng châu lỵ Ba Tơ. Cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ giành thắng lợi, chính quyền cách mạng được thành lập và Ðội du kích cứu quốc Ba Tơ ra đời từ đây.
Sau cuộc khởi nghĩa, Ðội du kích Ba Tơ lui về núi Cao Muôn, lập căn cứ chiến đấu. Giữa Tháng Tám lịch sử, từ núi rừng Ba Tơ, Ðội du kích Ba Tơ xuôi về đồng bằng tham gia tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 ở Quảng Ngãi, trở thành lực lượng nòng cốt trong kháng chiến chống Pháp ở khu vực Nam Trung Bộ. Những thành viên của đội du kích Ba Tơ như: Phạm Kiệt, Nguyễn Ðôn, Trần Quý Hai, Võ Thứ... về sau trở thành tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Thiếu tướng Lê Ngọc Hải, Phó Bí thư Ðảng ủy, Tư lệnh Quân khu 5, khẳng định: “Cùng với những giá trị lịch sử, Khởi nghĩa Ba Tơ còn thể hiện sức mạnh của nhân dân miền núi trong công cuộc đấu tranh chung của cả dân tộc. Ðồng bào các dân tộc Ba Tơ, đặc biệt là đồng bào Hrê không ngần ngại đứng lên đấu tranh, đóng góp nhân lực, vật lực cho cách mạng.
Ðấy là biểu tượng cho tinh thần đấu tranh kiên cường, khát vọng độc lập, tự do; là minh chứng về sức mạnh đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là sự gắn bó giữa đồng bào miền núi và miền xuôi”.
Chiến công vang dội cùng tinh thần bất khuất của Ðội du kích Ba Tơ làm nền tảng xây dựng các đơn vị vũ trang cách mạng ở nhiều địa phương, tiền thân của lực lượng vũ trang Quân khu 5 đến hôm nay. “Sau Cách mạng Tháng Tám, du kích Ba Tơ có tổ chức chặt chẽ, có kinh nghiệm chiến đấu, làm nòng cốt xây dựng các đơn vị lực lượng vũ trang cách mạng ở Nam Trung Bộ; sau đó phát triển thành các trung đoàn, đại đoàn thuộc Liên khu 5 trong kháng chiến chống Pháp; các trung đoàn, sư đoàn của Quân khu 5 trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, Ðại tá Võ Văn Bá, Phó Tham mưu trưởng Quân khu 5 chia sẻ.
“Còi xung phong mỗi khi thúc giục/Dù chông gai bom đạn cũng không sờn lòng”, hai câu thơ của thành viên đội du kích năm nào vẫn vang vọng giữa thung lũng Trường An. Ký ức về một thời lửa đạn vẫn còn vẹn nguyên trên vùng đất cách mạng kiên trung. Chiến tranh lùi xa, nhân dân bên núi Cao Muôn cùng mưa núi, gió ngàn dựng xây miền cao xanh thẳm.
Gìn giữ mạch nguồn, dựng xây quê hương
Năm tháng sẽ trôi qua nhưng tinh thần bất khuất, giá trị lịch sử cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ vẫn tiếp mạch nguồn cách mạng. Tấm lòng sắc son, yêu nước, ý chí kiên cường của đồng bào Hrê cùng đoàn kết, tự lực xây dựng quê hương.
Vẫn núi rừng, đồng đất, con người năm xưa, vùng cách mạng Ðội du kích Ba Tơ những ngày kháng chiến tiếp nối mạch nguồn khát vọng sức sống mới ở vùng núi phía tây nam tỉnh Quảng Ngãi. Sinh sống lâu đời ở các làng bản nhỏ, nương theo thung lũng, triền núi, ven sông, đồng bào Hrê cùng các dân tộc anh em khai hoang phục hóa, xây dựng phố thị miền cao nguyên.
Mang trên mình vết thương ngày bom đạn, bà Trần Thị Kim Hoa ở lại vùng đất cách mạng Ba Tơ, khi một phần tuổi thanh xuân dành trọn cho chiến trường. Ký ức bom đạn, hành quân, hái rau, nấu cơm ngày kháng chiến vẫn hằn sâu trong tâm thức người nữ thương binh. “Ở núi rừng thời ấy gian khổ nhưng tinh thần quyết tâm, tận sức để đuổi giặc cho quê hương hòa bình. Sau chiến tranh lại tiếp tục cùng đồng đội dựng xây quê hương mới”, nữ cựu chiến binh cười hiền lành.
Những năm qua, từ nhiều nguồn vốn của các chương trình, sự nỗ lực của các cấp ủy đảng, chính quyền quê hương vùng cách mạng không ngừng khởi sắc. Những cánh rừng xanh thẳm, đường làng thẳng tắp, ngôi trường vang tiếng trẻ thơ ở miền cao đầy sức sống mới.
Những người dân Hrê định canh định cư, trồng lúa nước, chăn nuôi gia súc, gia cầm để ổn định đời sống. Cánh đồng lúa, ngô, vùng nguyên liệu chế biến gỗ, nhiều công trình thủy lợi, thủy điện, kết cấu hạ tầng xây dựng kiên cố dần hình thành một đô thị phố núi bên dòng thác núi Cao Muôn.
Kể về những dự định mới cho người dân miền cao này, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Ba Dinh Phạm Văn Tiến mong muốn quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, chuyển giao khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp nhiều hơn, nâng cao giá trị và bảo đảm lưu thông nông sản cho nhân dân. “Vùng cách mạng Ba Tơ đổi mới từng ngày. Những gian khổ, hy sinh của nhiều thế hệ càng ý nghĩa hơn”, ánh mắt của cựu chiến binh Lê Văn An sáng lên.
Nhờ áp dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, sản lượng lương thực huyện Ba Tơ hơn 34.500 tấn, 96 nghìn ha rừng, đàn trâu 28.300 con, đàn bò 5.400 con và đàn lợn 31.250 con. Bên cạnh đó, giá trị sản phẩm bình quân đầu người đạt 50,7 triệu đồng; thu ngân sách nhà nước gần 43 tỷ đồng.
Ba Tơ-vùng An toàn khu của Trung ương trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp bừng lên sắc mới. Bí thư Huyện ủy Ba Tơ Ðinh Ngọc Vỹ trải lòng: “Giá trị lịch sử và truyền thống cách mạng là nền tảng sâu sắc để nhân dân đồng lòng. Huyện Ba Tơ tập trung đổi mới mô hình tăng trưởng, xây dựng nông thôn theo chuẩn mới; hoạch định lộ trình phát triển công nghiệp, dịch vụ, thương mại hài hòa với phát triển và gìn giữ văn hóa giàu bản sắc”.
Gìn giữ mạch nguồn, dựng xây quê hương, đồng bào các dân tộc vùng núi Cao Muôn khẳng định vai trò năng động của vùng đất phía tây nam tỉnh Quảng Ngãi. “Tiếp nối truyền thống anh hùng, tự lực, tự cường, các cấp ủy đảng, chính quyền tỉnh Quảng Ngãi sẽ tiếp tục hỗ trợ vùng An toàn khu Ba Tơ trên tinh thần phát huy nội lực, tiềm năng, khối đại đoàn kết toàn dân để xây dựng Ðảng vững mạnh, phát triển kinh tế bền vững, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong đó, trọng tâm là nâng cao chất lượng kết cấu hạ tầng vùng, phát triển các ngành kinh tế hướng đến mục tiêu nâng cao đời sống nhân dân, giữ gìn truyền thống cách mạng để đưa quê hương Ba Tơ phát triển ngày càng phồn vinh và hạnh phúc”, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi Nguyễn Hoàng Giang khẳng định.
Miền đất Ba Tơ anh hùng trong kháng chiến nay đã bừng lên sắc mới. Những ngày tháng 3 về núi Cao Muôn thăm vùng quê cách mạng. Thác Cao Muôn vẫn ngày đêm cần mẫn đổ về xuôi như dòng chảy lịch sử, tiếp nối mạch nguồn đến muôn đời sau.