Sức mạnh Tor-M1: Khiên bảo vệ trên không của Nga
Ngày 15/7, theo Army Recognition, hệ thống phòng không Tor-M1 của Nga đóng vai trò thiết yếu trong việc bảo vệ nước này trước các mối đe dọa trên không từ Ukraine, gồm máy bay, trực thăng, máy bay không người lái (UAV) và đạn dẫn đường.
Tor-M1, được định danh là 9K331, là hệ thống tên lửa phòng không tự hành, được thiết kế để bảo vệ các đơn vị quân đội và cơ sở hạ tầng quan trọng khỏi các mối đe dọa trên không hiện đại, bao gồm vũ khí có độ chính xác cao, máy bay, trực thăng, tên lửa hành trình, bom dẫn đường và UAV.
Hệ thống tích hợp các hệ thống thông tin chiến đấu, công cụ liên lạc và vũ khí trên một khung gầm xích duy nhất, tạo thành một đơn vị chiến thuật nhỏ gọn và hiệu quả.
Theo Army Recognition, hệ thống Tor-M1 bao gồm các thành phần chính như xe chiến đấu (9A331) chứa tất cả các hệ thống thiết yếu và mô-đun tên lửa (9M334) với 4 tên lửa 9M331 trong thùng chứa vận chuyển-phóng thẳng đứng (9Ya281), không cần bảo dưỡng trong suốt thời gian sử dụng.
Hệ thống còn có sự hỗ trợ từ các xe bổ sung như xe vận chuyển-nạp đạn (9T244), xe vận chuyển (9T245), máy dịch vụ kỹ thuật (9V887M và 9V888-1M), bộ thiết bị giàn khoan (9F116), máy phụ tùng nhóm (9F399-1M1) và máy huấn luyện vận hành điện tử tự động (9F678).
Về hiệu suất, Tor-M1 có khả năng phát hiện đồng thời tới 48 mục tiêu và tấn công hai mục tiêu cùng lúc.
Phạm vi phát hiện lên tới 27 km, với góc phương vị phát hiện 360° và phạm vi độ cao từ 0-32° hoặc 32-64°.
Hệ thống phát hiện mục tiêu ở độ cao lên tới 23 km và tấn công mục tiêu trong phạm vi từ 1-12 km và độ cao từ 0,01 đến 6 km, với tốc độ từ 10 đến 700 m/giây.
Mỗi xe chiến đấu được trang bị 8 tên lửa, với xác suất tiêu diệt mỗi tên lửa từ 0,45-0,8 đối với máy bay (loại F-15), 0,62-0,75 đối với trực thăng, 0,93-0,97 đối với tên lửa hành trình và 0,75-0,9 đối với vũ khí có độ chính xác cao.
Tên lửa 9M331 nặng 167 kg, dài 2898 mm, đường kính 239 mm, sải cánh 650 mm và sải cánh điều khiển 530 mm. Tên lửa mang đầu đạn nổ phá mảnh nặng 14,8 kg. Tốc độ tối đa của tên lửa từ 700 đến 850 m/giây, với tốc độ cơ động tối thiểu là 300 m/giây và khả năng quá tải ngang tối đa là 15-16 g. Thiết bị phóng nặng 9 kg.
Hệ thống radar và dẫn đường của Tor-M1 bao gồm một radar xung đồng bộ với quét tròn hoạt động trong băng tần sóng centimet, với công suất máy phát 1,5 kW. Nó cung cấp độ phân giải lên đến 2,0° theo phương vị, 4° theo độ cao và 200 m theo phạm vi, với thời gian quét là 1 giây.
Radar dẫn đường và theo dõi (SVR, SPK) là radar xung Doppler sử dụng băng tần G/băng tần H (các phiên bản sau này sử dụng băng tần K với ăngten quét mảng pha điện tử bị động).
Tầm phát hiện của radar là 20 km. Hệ thống cũng có một kính ngắm quang học truyền hình được sử dụng để tự động theo dõi mục tiêu theo tọa độ góc.
Hệ thống Tor-M1 hoạt động hiệu quả trong nhiều điều kiện môi trường khác nhau, có thể hoạt động ở độ cao lên đến 3000m so với mực nước biển và trong phạm vi nhiệt độ từ -50°C đến +50°C.
Xe chiến đấu có khả năng đạt tốc độ lên đến 65 km/h trên đường cao tốc và 45 km/h trên đường đất. Xe nặng 37 tấn và có phạm vi nhiên liệu là 500 km với thời gian hoạt động là 2 giờ. Tổ lái gồm 3 người, bao gồm cả tài xế và thợ máy
Tor-M1 sử dụng các phương pháp dẫn đường như phương pháp 3 tọa độ và phương pháp dẫn đường vô tuyến, giúp tên lửa luôn hướng về mục tiêu và điều chỉnh quỹ đạo tên lửa về phía điểm đánh chặn trước mục tiêu.
Đối với mục tiêu ở độ cao thấp, phương pháp 3 tọa độ giúp tránh phản xạ mặt đất. Hệ thống lái tự động ổn định tên lửa trong suốt chuyến bay, và có cơ chế tự hủy để ngăn ngừa thiệt hại ngoài ý muốn nếu tên lửa trượt mục tiêu.