Sửa đổi Hiến pháp vì nước, vì dân
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao, đóng vai trò nền tảng cho sự ổn định và phát triển của một quốc gia. Đối với Việt Nam, Hiến pháp còn là biểu tượng của sự thay đổi và tiến bộ của cách mạng dân tộc qua nhiều thời kỳ lịch sử. Từ năm 1946 đến nay, Việt Nam có 5 phiên bản Hiến pháp, chuẩn bị sửa đổi ở phiên bản thứ 6. Mỗi bản phản ánh rõ ràng bối cảnh lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn khác nhau.

Hiến pháp 1946 ra đời trong bối cảnh Việt Nam vừa giành được độc lập sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, thời gian này, đất nước đối mặt với nhiều khó khăn về kinh tế, chính trị. Vì vậy, việc ban hành một bản Hiến pháp dân chủ, khẳng định quyền tự chủ của quốc gia và bảo đảm quyền tự do, dân chủ cho Nhân dân là nhiệm vụ cấp bách.
Từ yêu cầu rất cấp thiết này, trong cuộc họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3/9, việc xây dựng Hiến pháp được đề ra. Trong vòng tháng 10, bản dự thảo Hiến pháp được trình Chính phủ; tháng 11 được đăng công khai trên báo Cứu Quốc để lấy ý kiến rộng rãi của quần chúng Nhân dân; trong kỳ họp Quốc hội lần thứ 2 được thông qua. Đây là bản Hiến pháp được xây dựng trong thời gian rất ngắn, nhưng có giá trị về nội dung rất sâu sắc. Dù ngắn gọn (7 chương, 70 điều), nhưng vẫn đảm bảo tinh thần cốt lõi dân chủ, quyền lực thuộc về Nhân dân.
Tồn tại trong 13 năm, Hiến pháp năm 1946 hoàn thành sứ mệnh, cần được bổ sung và thay đổi. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Hiệp định Genève được ký kết, đất nước bước vào giai đoạn mới. Tuy nhiên, chính quyền miền Nam (dưới sự ủng hộ của Mỹ) từ chối thực hiện hiệp định, dẫn đến việc chia cắt đất nước. Trong khi đó, miền Bắc tiến hành xây dựng CNXH. Hiến pháp năm 1959 ra đời, đáp ứng nhu cầu thay đổi về pháp lý, phù hợp tình hình thực tế của miền Bắc Việt Nam trong thời kỳ xây dựng XHCN, đồng thời phản ánh ý chí của toàn dân trong việc thống nhất đất nước. Từ bản dự thảo đầu tiên (tháng 7/1958) đến bản dự thảo chỉnh lý (cuối tháng 12/1959), cán bộ, đảng viên và toàn dân tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến xây dựng. Khi được ban hành, Hiến pháp 1959 bao gồm lời nói đầu và 112 điều, chia làm 10 chương, được xây dựng theo mô hình hiến pháp XHCN.
Trải dài hiệu lực trong 21 năm, từ khi đất nước còn chiến tranh, chia cắt, đến lúc hòa bình thống nhất, bản Hiến pháp 1959 cũng hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh lịch sử, nhường chỗ cho Hiến pháp 1980 (147 điều, chia làm 12 chương). Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1980 thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội vào một điều của Hiến pháp (Điều 4); thể chế hóa đường lối của Đảng về sự nghiệp xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước. Trong khi đó, Hiến pháp 1992 ra đời với mục tiêu thể chế hóa chính sách đổi mới, mở ra thời kỳ phát triển mới cho đất nước; đánh dấu sự chuyển mình của Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đồng thời khẳng định tiếp tục duy trì vai trò lãnh đạo của Đảng.
Sau hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn trong mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhu cầu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp để phù hợp tình hình mới là cần thiết. Trên cơ sở đó, Hiến pháp năm 2013 được ban hành, thể hiện rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc đề cao quyền lực Nhân dân và tiếp tục phát huy dân chủ XHCN.
Điều 119, Hiến pháp 2013 đề cập: Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp Hiến pháp. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Hiến pháp do Quốc hội ban hành. Việc sửa đổi Hiến pháp cũng do Quốc hội thực hiện.
Đất nước đang chuẩn bị bước vào lần sửa đổi Hiến pháp thứ 6, để đáp ứng yêu cầu đổi mới, bước vào kỷ nguyên mới. Cụ thể, tại Kết luận 127-KL/TW, ngày 28/2/2025, Bộ Chính trị yêu cầu rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Trong đó, giao Đảng ủy Quốc hội khẩn trương chủ trì, phối hợp Đảng ủy Chính phủ chỉ đạo Đảng ủy Ủy ban Pháp luật và Tư pháp, Đảng ủy Bộ Tư pháp, các cơ quan liên quan nghiên cứu việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp với phạm vi là các vấn đề về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Sau đó, báo cáo Bộ Chính trị vào đầu tháng 3/2025 để trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng trước ngày 7/4/2025; thời gian hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 2013 chậm nhất ngày 30/6/2025.
Tháng 5/2025, kỳ họp thường kỳ thứ 9 của Quốc hội bộn bề nhiều nội dung quan trọng, trong đó có nội dung sửa đổi Hiến pháp năm 2013 và các luật có liên quan. Có thể thấy rằng, những thay đổi và bổ sung trong nội dung các bản Hiến pháp qua từng giai đoạn không chỉ kế thừa giá trị cốt lõi của hệ thống lập hiến Việt Nam, mà còn thể hiện sự phát triển, điều chỉnh phù hợp yêu cầu của tình hình mới. Hiến pháp là nền tảng pháp lý tối cao, là minh chứng cho sự lãnh đạo của Đảng, khát vọng dân chủ, công bằng, văn minh của Nhân dân. Chắc chắn rằng, bản Hiến pháp mới nhất cũng sẽ đáp ứng yêu cầu thời đại mới!