Sự đọc của nhà văn
Dường như ai cũng biết đọc sách rất quan trọng, người sáng tác văn học nghệ thuật thì đọc sách càng quan trọng hơn. Nhà thơ Lê Quý Đôn từng nói về sự đọc như một tuyên ngôn nghệ thuật: 'Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt không có núi sông kỳ vĩ thì không thể làm thơ được'.
1. Nếu không đọc sách hoặc đọc ít, thì tác phẩm hình thành chủ yếu bằng năng khiếu văn chương và trải nghiệm sống, có nghĩa là tác giả sáng tạo bằng cái hữu hạn của mình. Nhưng viết mãi thì cũng đến lúc vốn liếng vơi dần và cạn kiệt, cảm xúc cùn mòn dần sẽ sớm buông bút. Nếu không đọc sách, hoặc đọc lớt chớt thì kiến văn sẽ hạn hẹp, muốn viết những điều lớn lao, những tác phẩm đồ sộ thì “lực bất tòng tâm”.
Nếu không đọc sách hoặc đọc chàng màng sẽ không biết thiên hạ viết thế nào, cái tôi với sự ngạo mạn, tự phụ, tự mãn choán hết tầm nghĩ, tầm nhìn mà không biết “Ở nhà nhất mẹ nhìn con/ Ra đường lắm kẻ còn giòn hơn ta”…

Người sáng tác giàu có kiến văn biết mười viết một bao giờ cũng dễ dàng hơn kẻ nghèo nàn sự học sự đọc, biết một mà cứ muốn viết mười. Trong đời viết văn, gặp các bậc đàn anh, gặp bạn nghề văn chương, tôi chưa thấy ai tự phụ coi mình ít đọc mà viết hay.
Nhà văn Ma Văn Kháng rất coi trọng đọc sách, ông nói: “Tự học, đọc sách là con đường lớn mỗi người nhất thiết phải qua nếu muốn tiến kịp cuộc sống hôm nay”. Không những khẳng định “nhất thiết” phải đọc, đọc để đi trên con đường lớn, mà ông còn nhấn mạnh đọc để không lạc hậu với cuộc sống, để không bị cuộc sống bỏ rơi. Nhà văn Stephen King, ông hoàng của tiểu thuyết kinh dị thì nói: “Tôi thật khó tin rằng những người đọc ít hoặc hoàn toàn không đọc văn lại có thể cho ra những tác phẩm xuất sắc. Hãy nhớ rằng, đọc văn chính là trung tâm sáng tạo trong cuộc đời các nhà văn”.
Không những nhà văn cần đọc sách, mà còn phải đọc sớm. Đọc sớm từ tuổi ấu thơ càng tốt. Thói quen đọc sách từ lúc khơi dậy cảm xúc, sẽ sớm lộ xa biên độ rung động tình cảm, và kích hoạt trí tuệ phát triển.Tôi có may mắn hơn bạn chăn trâu ở làng là tuổi học trò tiểu học đã được đọc sách, đọc “thượng vàng hạ cám”, cứ cái gì có chữ là đọc. Đọc từ tờ báo Thiếu niên Tiền phong cũ rách, từ quyển sách “Kỹ thuật chăn nuôi lợn ỉ đồng bằng Bắc Bộ”, “Kỹ thuật chăm sóc bèo hoa dâu” của Nhà xuất bản Phổ thông đến “Hai mươi ngàn dặm dưới đáy biển”, “Dế mèn phiêu lưu ký”, “Không gia đình”… của Nhà xuất bản Kim Đồng, hay “Đông Chu liệt quốc”, “Tam Quốc diễn nghĩa”, “Sống mòn”, “Bước đường cùng” của Nhà xuất bản Văn học… trong tủ sách hơn ba trăm cuốn của anh cả tôi là giáo viên trường làng.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa còn đọc nhiều hơn tôi. Trước lúc đi bộ đội, ông đã kịp đọc hơn một ngàn cuốn sách. Lúc còn nhỏ ở quê, ông lấy chìa khóa tủ sách của ông anh là giáo viên, nhà thơ Trần Nhuận Minh cất trong bức tượng M. Gorki mở tủ và đọc sách suốt tuổi thơ. Những “Truyện ngắn Chekhov”, "Giamilia - truyện núi đồi và thảo nguyên" của Aitmatov, “Bỉ vỏ” của Nguyên Hồng…, và cả “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh khi ấy coi như là sách cấm ông cũng đọc. Tuổi thơ Trần Đăng Khoa thấm đẫm trong lời ru của người mẹ không biết đọc không biết viết nhưng lại thuộc lòng “Chinh phụ ngâm”, “Truyện Kiều”, “Phạm Công - Cúc Hoa”… và nhiều bài ca dao. Trần Đăng Khoa nghe lời ru và nghe mẹ đọc ca dao cũng là một kiểu đọc. Cho nên “Thần đồng thi ca” Trần Đăng Khoa mới xuất khẩu thành thơ những câu tuyệt bút: “Mái gianh ơi hỡi mái gianh/ Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương”, hoặc câu thơ hay đến sửng sốt viết lúc mười tuổi: “Ngoài thềm rơi cái lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” chính là cộng hưởng của tài năng trời cho với sự trải nghiệm, quan sát đời sống và sự đọc từ lúc thiếu thời. Trần Đăng Khoa nói: “Đọc sách từ tuổi ấu thơ đã mở cánh cửa lớn cho tôi ra thế giới rộng lớn”.
2. Đọc sách rõ ràng là cần thiết đối với mọi người, nhưng cái sự đọc sách của nhà văn cũng khác người bình thường. Đó là sự đọc của người sáng tác. Sự đọc của nhà văn hay còn gọi là… đọc theo cách đọc của nhà văn. Sự đọc thông thường của người đọc không phải nhà văn là đọc để thu thập thông tin, đọc để giải trí, nâng cao kiến văn. Nhưng sự đọc của nhà văn ngoài những yêu cầu đó còn phải đồng hành với tác giả để khám phá quy luật sáng tạo, ý tưởng, kỹ năng sáng tác, cấu trúc, giọng văn, ngôn ngữ, nhân vật… như thế nào. Nói một cách dễ hiểu đọc như một nhà văn cũng giống như một kiến trúc sư đứng trước tòa biệt thự xem kiểu dáng, hình khối, phối cảnh, màu sắc, vật liệu xây dựng…, hoặc ít ra cũng phải như một ông thợ cả đứng nhìn căn nhà gỗ cổ của tiền nhân xem cột kèo, quá giang, trụ, đòn, hoa văn được đục đẽo, chạm khắc thế nào.

Sự đọc của nhà văn là vừa đọc vừa suy tư, vừa đọc vừa liên tưởng, vừa đọc vừa đặt các câu hỏi, chẳng hạn tại sao Nam Cao lại sử dụng hình ảnh bát cháo hành của Thị Nở mà không phải là cái gì khác? Vì sao nhà văn Đỗ Văn Nhâm không chọn nhân vật ông bưu tá bình thường mà lại là ông thương binh chân bước cọt kẹt… cọt kẹt trên đường làng ai thấy ông cũng sợ như sợ cọp mỗi khi ông rẽ vào cổng nhà ai không đem giấy báo tử, thì là giấy gọi nhập ngũ?...
Đọc của nhà văn không phải cách đọc tuồn tuột hết dòng này đến dòng khác, hết trang này đến trang khác. Đôi khi đọc một đoạn văn phải dừng để đọc đi đọc lại, thậm chí bắt gặp một câu, hoặc một chữ cũng phải dừng lại để suy nghĩ. Sự đọc luôn gián đoạn, đọc rồi dừng lại, đọc lại, rồi nghiền ngẫm, rồi lại đọc.
Tôi đã từng nhìn thấy những dấu hỏi, các đoạn gạch chân câu văn, hoặc khoanh tròn một chữ, những trang gấp đánh dấu trong những quyển sách nhà văn Đỗ Tiến Thụy đọc. Đó là những câu, chữ, những đoạn văn gây chú ý, gây suy tư cho nhà văn. Tôi cũng từng biết nhà văn Nguyễn Mạnh Hùng khi đọc luôn có cây bút và quyển sổ bên cạnh. Ông chăm chỉ chép lại khi bắt gặp từ mới lạ, hoặc câu văn câu thơ hay. Nhà văn đọc sách tùy thuộc vào văn bản sáng tác đang chình ình trước mặt và khả năng tiếp nhận, sự đồng cảm hay không mà bỏ sách, hoặc “đánh vật” với tác phẩm. Sự đọc của nhà văn cũng giống như quá trình sáng tác vật lộn với ý tưởng, chọn câu lựa chữ, cân nhắc kết đoạn hợp chương rồi “tập đại thành” nên tác phẩm.
Nhà văn Ma Văn Kháng đã có lần bộc bạch: “Đối với tôi phải đọc thật nhiều, đọc vô tư, đọc hồn nhiên như việc sống vậy, cũng phải hồn nhiên; để nó ngấm vào mình ở thể vô ngôn và đến một lúc nào đó nó sẽ tỏa ra như ong hút mật cần cù, rồi lại tự mình làm ra mật”. Đọc để nó “ngấm vào mình” đến một lúc nào đó cái trường liên tưởng của nhà văn thức dậy và chữ gọi chữ, câu gọi câu rồi sáng tạo trên nền kiến văn đã đọc.
Năm 1998, tác phẩm “Chân dung và đối thoại” của nhà thơ Trần Đăng Khoa nổi lên như một hiện tượng của văn học. Ông hoàn thành cuốn sách ấy trong thời gian được phân công viết bài cho chuyên mục “Đối thoại hàng tháng” của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, vừa làm báo ông vừa dành thời gian đọc một cách có hệ thống tác phẩm của các tác giả để viết với tinh thần điềm tĩnh, khách quan. Đọc nhưng ông “đều lùa ra khỏi đầu mình những mặc cảm, định kiến những lời bình phẩm, đánh giá mang tính định hướng của các nhà phê bình nghiên cứu từ trước đến nay và cả sự yêu ghét cá nhân của chính bản thân mình”. Sự đọc của ông là: “vừa đọc vừa ngẫm nghĩ, quan sát, xem cuốn sách đó, tác giả đó thực sự hay, dở thế nào”. Cuối cùng là lao động nhà văn, ông “trình bày với bạn đọc cách hiểu và cách cảm nhận của mình”.
Trong đời sống văn chương, có những nhà văn vẫn ham đọc sách, đọc được nhiều sách, nhưng là sách tư liệu nâng cao kiến văn - là kiến thức với “những điều mắt thấy tai nghe, những điều hiểu biết”, chứ ít đọc sách văn chương. Họ cho rằng: Không đọc tác phẩm của đồng nghiệp để không bị vô tình ảnh hưởng, ảnh hưởng ý tưởng, ảnh hưởng nghệ thuật. Đọc rồi nó “ngấm vào mình” lúc nào không biết, khi sáng tác biết đâu lặp lại người khác, bị cái bóng đại thụ đổ xuống trùm lấp. Nỗi sợ vô thức bắt chước những vị tiền bối khổng lồ cũng làm cho người viết không đọc hoặc ít đọc bạn nghề. Cũng có người viết cho rằng văn học Việt Nam chẳng có gì đáng đọc, đáng học, chỉ rặt những gì cũ mòn, cho nên họ chỉ đọc tác phẩm nước ngoài. Đọc ngoài nước để tìm kiếm cái lạ, để học hỏi cái mới. Đọc cái gì và đọc như thế nào là lựa chọn của mỗi nhà văn. Nhưng không đọc vì sợ bị ảnh hưởng, sợ vô tình lặp lại, bắt chước là mất tự tin, thiếu bản lĩnh.
Lịch sử văn học như một dòng sông lớn có nhiều nhánh và không ngừng chảy. Đọc và viết để bao quát dòng sông văn học lớn của đất nước rồi tự chảy thành chi nhánh mới làm cho nền văn học dân tộc đa dạng, phong phú. Đọc còn để đối diện với cái khác mình, cái quyền năng văn chương vượt trội mình để rồi tự lớn. Sự đọc của nhà văn không chỉ cần say mê, cần kỹ năng đọc, mà còn cần bản lĩnh. Xét đến cùng nhà văn cũng đồng thời là người đọc, nhưng là người đọc sáng tạo.