Sự đáp đền với miền cát Hải Lăng
Tròn một con giáp (12 năm) trôi qua, những gì đang diễn ra ở vùng cát duyên hải Đông Nam Quảng Trị làm dấy lên trong tôi ngổn ngang cảm xúc. Có thể nói là may mắn khi nhà máy nhiệt điện than ấy đã bị dừng lại, thay vào đó là một công trình sử dụng khí LNG. Cùng với điều đó, hình hài của cảng Mỹ Thủy đang dần hiện ra, con đường xuyên suốt từ Nam Cửa Việt vào trung tâm khu kinh tế đang vỡ vạc những hoài vọng. Vóc dáng của những công trình đã thấp thoáng trên miền cát. Hải Lăng đã chờ đợi quá lâu, nhưng không vì thế mà không thấy rằng giấc mơ ấy đang hiện ra ngày càng rõ hơn, mang theo bao khấp khởi tin yêu và hy vọng.
Những hàng dương còn nhắc...
Những con số thống kê về tổng vốn đầu tư cho các dự án trong khu vực này khiến chúng tôi nghĩ đến công ăn việc làm sẽ tạo ra cho hàng vạn người dân vùng “bãi ngang” nơi đây. Nhưng sẽ còn ý nghĩa hơn nếu biết rằng sự hy sinh của người dân vùng này suốt chiều dài của cuộc kháng chiến vệ quốc!

Đền tưởng niệm vụ thảm sát Mỹ Thủy năm 1948 làm 526 người dân vô tội bị thực dân Pháp giết chết tại xã Hải An - Ảnh: L.Đ.D
Gần 80 năm trước, năm 1948, nơi đây đã từng xảy ra một cuộc thảm sát làm chết hơn 500 người dân lành vô tội. Nếu chạy xe theo tỉnh lộ 582 từ Quốc lộ 1 về Cảng Mỹ Thủy, đến điểm cuối con đường sẽ thấy ngôi đền tưởng niệm “Vụ thảm sát Mỹ Thủy năm 1948” .
Tấm bia bằng đá đen giữa ngôi đền chỉ ghi sự kiện này với mấy chục chữ khắc tóm tắt lên đá “Với âm mưu dập tắt lòng yêu nước và phong trào cách mạng của Nhân dân Quảng Trị, trong hai ngày 19/3 và 8/4, quân đội Pháp tổ chức cuộc hành quân quy mô lớn đã càn quét và thảm sát một cách man rợ thôn Mỹ Thủy làm chết 526 thường dân vô tội, trong đó có nhiều người già, phụ nữ và trẻ em. Vụ thảm sát năm 1948 là một trong những tội ác diệt chủng dã man nhất mà quân đội Pháp gây ra trên đất nước Việt Nam.”
Gần 80 năm đã trôi qua, thân xác của những người dân Mỹ Thủy bị thảm sát đã tan vào cát bụi nhưng tấm bia quanh đền tưởng niệm vẫn rõràng dòng tên tuổi của 526 người được khắc lên từng mảnh đá nhỏ. Những mảnh đá ấy ghép lại thành một vòng cung vây quanh đền, dưới mỗi tấm đá khắc tên là một bát nhang tưởng vọng.
Câu chuyện về vụ thảm sát ấy sau này được nhà thơ Dương Tường nhắc lại trong bài thơ nổi tiếng “Tiếng cây dương Mỹ Thủy:“Trên sóng biển ì ầm/Ba trăm ngôi mộ mới/Trong mưa chiều lâm thâm/Nhà nào vắng đèn nhang/Đầu nào không khăn trắng...”.
Trong bài thơ ấy nhà thơ ghi “300 ngôi mộ” bởi đó là số nạn nhân của cuộc thảm sát ngày 19/3/1948, chưa đầy ba tuần sau, ngày 8/4 thêm hơn 200 người dân làng Mỹ Thủy ngã xuống. Và không chỉ ở Mỹ Thủy, đi dọc vùng duyên hải Đông Nam Quảng Trị dễ gặp hai bên đường những nhà bia tưởng niệm như thế, như ở làng Kim Giao (xã Hải Dương - Hải Lăng) cùng thời điểm tháng 3/1948 ấy là cuộc thảm sát với 136 người dân bị giết.
Không xa đền tưởng niệm, cũng sát bên Tỉnh lộ 582, cạnh Đồn Biên phòng Mỹ Thủy là một nhà bia tưởng niệm khác khắc tên những liệt sĩ thuộc phân đội 180, An ninh vũ trang Quảng Trị đã hy sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng Mỹ Thủy ngày 24/5/1972, nhiều liệt sĩ ngã xuống khi mới 19 tuổi.
Hơn 10 năm trước, sau ngay khi UBND tỉnh Quảng Trị công bố thông tin về nhà đầu tư Nhà máy nhiệt điện công suất 1.200MW tại xã Hải Khê, huyện Hải Lăng với kinh phí lên đến 2,26 tỉ USD. Chúng tôi đã tìm về vùng biển xã Hải An, Hải Khê-khu vực xây dựng Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị với những tên đất tên làng của vùng đất duyên hải khó nghèo và khốc liệt: Mỹ Thủy, Thâm Khê, Trung An...
Và nhắc đến vùng đất duyên hải Đông Nam Quảng Trị này không thể nhắc đến nữ anh hùng liệt sĩ Trần Thị Tâm. Bộ tiểu thuyết hai tập “Dưới đám mây màu cánh vạc” của Thu Bồn đã dựng lại trọn vẹn không chỉ cuộc đời của người con gái can trường làng biển mà tái hiện cuộc chiến khốc liệt trên vùng cát Hải Lăng những năm kháng Mỹ.
Giữa một vùng đất chang chang cát bỏng như sa mạc, vậy mà dưới những gốc xương rồng vẫn ẩn giấu những hầm bí mật, đêm đêm những du kích đội hầm đi vào từng làng, từng ngõđánh địch, diệt tề. Trần Thị Tâm hy sinh trong khi chỉ huy một trận chiến đấu ác liệt với địch, khi ấy chị mới 24 tuổi, là Huyện đội phó Hải Lăng.
Bây giờ, về quê hương chị, sẽ thấy ngôi trường Trung học phổ thông mang tên Trần Thị Tâm. Ở trung tâm xã, tượng đài của chị nằm trong khuôn viên Trường tiểu học Hải Khê, vây quanh đó là nhà trẻ, trường học, ủy ban xã, nghĩa trang liệt sĩ. Buổi trưa chang chang nắng, chúng tôi bước vào Nghĩa trang xã Hải Khê, tấm bia ở đây khắc đủ tuổi tên của 132 liệt sĩ hy sinh ngay trên chính quê hương mình, và trên bia, chúng tôi đọc thấy tên của nữ liệt sĩ Trần Thị Chữ, y tá, sinh năm 1950 và hy sinh năm 1966.
Nghĩa là chị thành liệt sĩ khi mới 16 tuổi! Dọc dài qua vùng đất Hải An, Hải Khê, cùng với giấc mơ về một tương lai tươi sáng hơn khi Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị khởi động là cảm giác ấm áp của một món nợ ân tình được đáp đền.
Chạm vào giấc mơ
Viễn cảnh tươi sáng của vùng đất cơ cực này, sau khi được “kích hoạt” với sự khởi công xây dựng Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị thật sự chỉ nóng lên trong thời gian gần đây. Đặc biệt, với chuyến thăm và làm việc tại Quảng Trị của Tổng Bí thư Tô Lâm vào ngày 16/10/2024, sau đó tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII đồng chí Tô Lâm đã phát biểu về Quảng Trị với câu đúc kết như một sự động viên to lớn với Đảng bộ và Nhân dân tỉnh nhà : “Nếu là nhà đầu tư, tôi sẽ chọn Quảng Trị”.

Công trình mới trên vùng cát Hải Lăng - Ảnh: T.N
Trong những lý do mà Tổng Bí thư đề cập, có nhắc đến vấn đề mặt bằng. Bất cứ sự phát triển hạ tầng công nghiệp nào cũng cần đến mặt bằng quỹ đất. Những cồn cát duyên hải mênh mông của Quảng Trị, trong cách nhìn của Tổng Bí thư hôm nay cũng chính là một lợi thế: “Hạ tầng (Quảng Trị) cũng rất tốt, đất nông nghiệp ít thôi, đất rừng cũng mức độ, chủ yếu là đất nền cát, những bãi cát như vậy đều phát triển được công nghiệp, hoàn toàn có đủ những điều kiện để phát triển lên. Với những điều kiện như vậy, các địa phương phải phát huy cao độ sự tự chủ tự lực của mình, nếu không là bỏ lỡ thời cơ”. Và chính những bãi cát điệp trùng duyên hải Đông Nam giờ đây chính là điều kiện vô cùng thuận lợi cho xây dựng phát triển và hạ tầng.
Sau bao nhiêu đau thương mất mát của người dân vùng duyên hải Đông Nam này, sự đổi đời, dù có hơi chậm nhưng vẫn dễ khiến cho người ta hy vọng, như bao nhiêu năm nay đã từng hy vọng. Những con đường phẳng lỳ, bóng loáng nổi bật trên nền cát trắng. Chúng tôi phóng xe trên con đường mới tinh khôi, trên con đường này, rồi sẽ rộn ràng tấp nập những đoàn xe xuôi ngược phục vụ cho những dự án “tỉ đô”. Hai bên đường, những cánh đồng đang vào mùa lúa chín.
Trong lúc chờ đợi những nhà máy hiện đại mọc lên, những đội tàu hàng chục vạn DWT cập bến, những đoàn xe con thoi nối Quốc lộ 1 về Cảng Mỹ Thủy và Khu kinh tế Đông Nam người dân đã tận dụng mặt đường những tuyến đường này để làm nên một sân phơi rực vàng màu lúa, trắng ngần màu khoai mì xắt lát. Nhưng, tất nhiên không ai muốn những con đường trong Khu kinh tế Đông Nam này cứ mãi làm “sân phơi tận dụng” mà phải mau chóng trở thành “đường băng” cho nền kinh tế Hải Lăng cất cánh.
Ghi chép : Lê Đức Dục