Sống cả cho những người đã khuất
Sau khi phục vụ chiến dịch Mậu Thân năm 1968, từ năm 1969-1970, tôi được cử về Khu 10 để học lớp y sĩ 2 năm. Giai đoạn này chiến trường cực kỳ ác liệt. Do Mậu Thân 1968 ta đánh không dứt điểm, chưa giải phóng hoàn toàn miền Nam. Đến năm 1969, địch củng cố lực lượng và phản công mạnh nên chiến trường rất ác liệt. Địch tổ chức đánh chiếm nhiều nơi. Trên trời máy bay Mỹ oanh tạc dữ dội, dưới đất chúng đưa lính bộ binh càn quét liên miên. Chúng đánh vào căn cứ bằng cả B52 và pháo binh. Có lúc bị đứt liên lạc từ trên xuống, dưới lên, cả căn cứ và phía trước, buộc ta phải chia nhỏ sơ tán để bảo toàn lực lượng.
Khu vực chúng tôi học bị máy bay B52 ném bom chà đi xát lại nhiều lần. Lúc đầu khóa học được tổ chức bên đất bạn Campuchia, nhưng địch đánh phá rất ác liệt, lại thiếu lương thực, thực phẩm. Nếu tập trung đông người một chỗ mà bị địch ném bom thì thương vong lớn, vả lại đông người cũng khó tổ chức. Do đó, Khu ủy quyết định chia khóa học thành 2 lớp. Một lớp ở lại bên Campuchia; một lớp sơ tán về vùng 3, thuộc khu vực Đồng Nai Thượng để vừa học vừa tổ chức sản xuất phục vụ đời sống học viên chứ không đợi cấp trên hỗ trợ. Tôi thuộc lớp vùng 3.

Đồng chí Nguyễn Hữu Luật (thứ 5 từ phải qua) trong buổi ra mắt Ban Chấp hành tỉnh đảng bộ Bình Dương - Bình Phước
Vừa tới địa điểm mới, chúng tôi tập trung xây dựng căn cứ, vừa tổ chức sản xuất để có lương thực, thực phẩm phục vụ lớp; vừa đi suốt lúa giúp đồng bào dân tộc thiểu số. Cứ thế, chúng tôi vừa học vừa trồng lúa, bắp, đậu; vừa đi đánh cá, bẫy thú rừng lấy thức ăn. Hồi đó, nơi lớp chúng tôi đóng quân, anh em bẫy bắt được rất nhiều cá, thú rừng nhưng lại thiếu muối và lương thực trầm trọng. Có lần anh em bắn được con voi rừng lấy thịt ăn, còn cặp ngà, nhà trường phân công tôi cùng một số anh em đi đổi lấy lương thực. Chúng tôi mang ra đường 20 đổi được 2 bao bột mì, mỗi bao 50kg. Nhưng vì đường xa, mất 10 ngày đi đường nên về tới cứ chỉ còn một bao. 50kg bột mì ấy, trường để dành lo cho những anh chị em đau ốm. Anh em khỏe mạnh thì ăn bắp và rau rừng tự kiếm được. Mỗi ngày, một người được chia nửa lon bắp hầm ăn với rau rừng, lá bép, môn dóc nên đói triền miên.
Một hôm, tôi cùng ba anh em đang ngồi học nhóm. Trời về khuya vừa lạnh vừa đói. Bỗng chúng tôi nhìn thấy con chó của đơn vị từ ngoài chạy vào tha theo miếng da nai. Mấy hôm trước, anh em bắn được con nai, đã ăn hết thịt, còn da treo trên giàn bếp. Có lẽ miếng da rớt xuống và con chó nhặt được tha về. Bốn anh em tôi chạy vội ra, giằng lấy miếng da nai rửa sạch và đem nướng lên. Chúng tôi chia làm năm phần, bốn anh em mỗi người một phần, còn một phần thưởng cho chú chó. Miếng da nai ấy giúp chúng tôi thêm ấm lòng để cùng nhau tiếp tục học bài.
Vào ngày Chủ nhật của tháng 9-1969, khi đã ổn định nơi ăn ở, trường phân công một bộ phận đi lấy bảng về học và một bộ phận đi tải gạo. Bộ phận đi tải gạo đông người, còn bộ phận đi lấy bảng chỉ có hai người là tôi và anh Ao Huyền Thanh, lớp phó. Hai đoàn cùng xuất phát một lúc, đến gần ngã rẽ thì đoàn đi tải gạo nghỉ lại, còn đoàn đi lấy bảng chuẩn bị bơi qua sông Đắk Quýt. Lúc này, tôi bỗng lên cơn sốt rét dữ dội, không thể bơi qua sông được. Anh bạn thân của tôi là Đào Trung Sơn phụ mang đồ và dìu tôi đến chỗ rẽ. Thấy sức khỏe của tôi xấu đi, anh Sơn lấy cơm nắm ra bảo tôi ăn và cho tôi uống thuốc để lấy sức, nhưng tôi vẫn sốt cao và run cầm cập. Anh Sơn bảo:
- Mày đang sốt cao, không thể bơi qua sông được, để tao đi thay. Mày ở lại đây, bớt sốt thì đuổi theo anh em đi cõng gạo nhé!
Được ban cán sự lớp đồng ý, tôi ở lại để anh Sơn đi thay, chờ đến hôm sau bớt sốt thì tôi theo đoàn đi tải gạo. Nhưng lần ấy, anh Đào Trung Sơn và anh Ao Huyền Thanh đã không về. Cả hai bị bom B52 và hy sinh trên đường đi lấy bảng. Tôi đã khóc rất nhiều. Nếu hôm đó tôi không lên cơn sốt rét để anh Đào Trung Sơn đi thay thì người hy sinh là tôi chứ không phải anh ấy. Kể từ đó, anh Đào Trung Sơn trở thành người thân ruột thịt đã hy sinh của tôi. Tôi luôn nhớ ngày làm giỗ anh và sau này lập bàn thờ để hương khói cho anh.
Những ngày tháng khó khăn nhất rồi cũng qua đi. Nhưng có lẽ cú sốc lớn nhất, khó khăn to lớn nhất đối với chúng tôi trong thời gian này là khi nghe tin Bác Hồ từ trần. Trời tháng 9, rừng núi âm u lạnh lẽo, không khí lớp học nặng nề, u ám. Tôi đi đến tổ nào, nhà nào cũng thấy các cô, các chị sụt sùi khóc lóc, buồn bã. Còn những chú, những anh lớn tuổi thì lặng lẽ ưu tư và mắt thì đỏ mọng. Nhà trường tổ chức lễ truy điệu Bác Hồ. Ai nấy đều khóc thương Bác. Các chú, các anh lãnh đạo phải “lên dây cót” tinh thần cho chúng tôi, rằng tiếc thương Bác Hồ thì hãy biến tình cảm thành ý chí và hành động. Hãy học tập, rèn luyện thật tốt để phục vụ cách mạng tốt hơn. Đó mới là tình cảm, trách nhiệm của những người chiến sĩ cách mạng chứ không phải tiếc thương Bác là chỉ biết sụt sùi khóc lóc.
Tốt nghiệp khóa y sĩ, chúng tôi trở về đơn vị cũ. Trong lớp tôi lại có thêm hai người hy sinh. Được gọi trở về đơn vị cũ, nhưng trên đường về chưa đến cứ thì được lệnh ở lại khu vực sông Đồng Nai phụ trách bộ phận sản xuất của Ban Y tế tỉnh. Nhiệm vụ của chúng tôi là trồng lúa, bắp, mì và săn bắt cá, thú rừng để có thêm cá, thịt, lương thực chi viện cho Ban Y tế và Bệnh viện tỉnh. Lúc này chiến trường vẫn vô cùng ác liệt và thiếu thốn. Anh em tự sản xuất lương thực để ăn chứ không thể chờ tiếp viện từ bên ngoài. Thức ăn chủ yếu là bắt cá suối, bẫy thú, hái lá rừng ăn thay cơm. Đói, khổ có thể chịu đựng được, nhưng vì thiếu muối nên sức đề kháng của quân ta giảm đi rất nhiều, bệnh tật triền miên.