Siết vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn: Ngân hàng tìm cách cân đối thanh khoản
Nhu cầu vốn đầu tư hạ tầng đến năm 2030 ước lên tới 245 tỷ USD, trong khi ngân hàng bị siết tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn. Để đáp ứng nhu cầu này, các nhà băng đẩy mạnh phát hành trái phiếu nhằm cân đối thanh khoản.
Ông Nguyễn Hoàng Linh, Giám đốc Phân tích và nghiên cứu Công ty TNHH Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Vietcombank (VCBF), cho rằng dựa trên tính toán, để đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 9% trở lên, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đến năm 2030 cần đạt gần 9 triệu tỷ đồng. Trong đó, nhu cầu về nguồn vốn trung và dài hạn là rất cao sẽ đặt ra một rủi ro lớn với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
Rủi ro lấy vốn ngắn hạn cho vay dài hạn
TS. Lê Minh Nghĩa, Chủ tịch Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam, đánh giá thị trường vốn là cấu phần quan trọng của thị trường tài chính - nơi cung ứng nguồn vốn trung hạn và dài hạn, góp phần huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực, tạo nền tảng vật chất thiết yếu để nền kinh tế quốc gia tăng trưởng.
Hiện nay, ngân hàng luôn đóng vai trò “bà đỡ" cho nền kinh tế trong vấn đề cung ứng vốn, nhất là khi thị trường vốn, thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN)… chưa phát triển như mong muốn.
Minh chứng được ông Phạm Xuân Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam nêu tại Tọa đạm “Cơ chế kiểm soát tín dụng: Thay thế hạn mức bằng bộ tiêu chí an toàn”, được tổ chức cuối tuần qua là nếu chưa tính trái phiếu Chính phủ, với khoảng 1,7 triệu tỷ đồng đến từ tổng dư nợ tín dụng ngân hàng, cùng với hơn 1 triệu tỷ vốn hóa thị trường chứng khoán và TPDN là hơn 1 triệu tỷ thì tổng dư nợ trên thị trường tài chính Việt Nam có thể lên đến hơn 3 triệu tỷ đồng, tương đương gần 2 lần GDP.

Nhu cầu về nguồn vốn trung và dài hạn trong thời gian tới rất cao sẽ đặt ra một rủi ro lớn với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
Tuy nhiên, tại một hội thảo về vốn được tổ chức hồi đầu năm nay, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Đào Minh Tú cho biết "vốn ngân hàng là vốn bổ sung cho vốn lưu động, vốn ngắn hạn. Bản thân ngân hàng huy động vốn ngắn hạn nhưng lại phải cho vay trung dài hạn, thay cho thị trường vốn”.
Vấn đề này cũng được các chuyên gia dự báo có thể tạo ra rủi ro lớn. Điều đó là do nếu các khoản vay trung dài hạn không được thu hồi đúng hạn, ngân hàng có thể gặp khó khăn trong việc đáp ứng các nghĩa vụ trả nợ cho người gửi tiền ngắn hạn, dẫn đến tình trạng mất thanh khoản.
Đáng chú ý, trong báo cáo về dòng vốn tương lai, chuyên gia phân tích của VIS Rating ước tính, giai đoạn 2025 - 2030, nước ta cần khoảng 245 tỷ USD cho xây dựng cao tốc, đường sắt tốc độ cao và các dự án năng lượng, trong khi đầu tư công chỉ đáp ứng 70% nhu cầu vốn dự kiến.
Theo ông Nguyễn Hoàng Linh, Giám đốc Phân tích và nghiên cứu Công ty TNHH Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Vietcombank (VCBF), hầu hết nguồn vốn huy động hiện nay tại các ngân hàng có kỳ hạn dưới 12 tháng, trong khi nhu cầu về vốn trung và dài hạn lại rất lớn. Việc các ngân hàng huy động vốn ngắn hạn nhưng cho vay kỳ hạn dài, với thời gian từ 3 - 5 năm tiềm ẩn rủi ro thanh khoản kỳ hạn rất lớn.
Rủi ro này cũng được ngành ngân hàng lường tính khi NHNN đã ban hành thông tư quy định các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của ngân hàng theo hướng siết lại tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn.
Phát triển mạnh hơn thị trường TPDN
Thu xếp vốn cho các dự án hạ tầng chủ yếu vẫn là ngân hàng. Do đó, để đáp ứng nhu cầu của thị trường và đảm bảo hệ số an toàn tài chính, từ đầu năm đến nay, ngân hàng luôn giữ vai trò dẫn đầu về phát hành trái phiếu nhằm để bổ sung nguồn trung dài hạn, cân đối thanh khoản.
Theo báo cáo thị trường TPDN tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2025 của FiinRatings, tổng giá trị phát hành TPDN trong tháng 6 đạt 105,5 nghìn tỷ đồng, tăng tới 52,4% so với tháng trước.
Trong số đó, nhóm ngân hàng ghi nhận tổng giá trị phát hành lên tới 189,7 nghìn tỷ đồng trong 6 tháng, chiếm đến 76,3% toàn thị trường. Đây cũng là mức cao nhất kể từ đầu năm, khẳng định xu hướng chủ động dùng kênh trái phiếu như một “cánh tay nối dài” huy động vốn.
Số liệu từ Công ty Chứng khoán MBS càng củng cố xu thế này: Chỉ riêng tháng 6, có tới 106 đợt phát hành mới từ doanh nghiệp, trong đó các ngân hàng chiếm áp đảo về giá trị. Những cái tên dẫn đầu là ACB với 24,8 nghìn tỷ đồng, kỳ hạn 24 - 36 tháng, lãi suất 4,95–5,6%; MB: 14,7 nghìn tỷ đồng, kỳ hạn lên tới 120 tháng, lãi suất 5–6,48%.
Theo FiinRatings, nhu cầu phát hành chủ yếu đến từ yêu cầu bổ sung vốn cấp 2, giúp nâng cao hệ số an toàn vốn (CAR), đặc biệt trong bối cảnh tín dụng tăng nhanh. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng phải đáp ứng: Tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn (đang dần giảm theo lộ trình của NHNN, từ 30% về 25%); Hệ số LDR (Loan to Deposit Ratio) – tỷ lệ cho vay so với tổng huy động, nhằm đảm bảo khả năng thanh toán.
Các quy định này khiến các ngân hàng phải cải thiện cơ cấu nguồn vốn, hạn chế dùng vốn ngắn hạn tài trợ cho khoản vay dài hạn. Vì vậy, phát hành trái phiếu với kỳ hạn từ 2–10 năm là giải pháp tối ưu.
Để giảm bớt sự phụ thuộc nguồn vốn trung và dài hạn vào ngân hàng, các chuyên gia cho rằng cần đẩy mạnh đầu tư và nâng cao chất lượng đầu tư bằng cách đa dạng hóa các kênh huy động vốn.
TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương khẳng định: “Một nền kinh tế phát triển không thể dựa mãi vào ngân hàng. Chúng ta phải phát triển những thị trường vốn then chốt khác, trong đó có thị trường trái phiếu và chứng khoán. Khi thị trường vốn phát triển, đa dạng hóa hơn, nền kinh tế cũng sẽ có những khởi sắc mới”.
Chuyên gia FiinRatings kỳ vọng các thay đổi về quy định pháp lý gần đây đang “mở đường” cho thị trường TPDN phát triển. Đó là kênh TPDN hiện yêu cầu chặt chẽ hơn về công bố thông tin, siết chặt điều kiện phát hành và bắt buộc xếp hạng tín nhiệm, giúp củng cố niềm tin nhà đầu tư và nâng cao tính minh bạch. Những cải cách trên khi song hành cùng nhau sẽ định vị TPDN như một công cụ huy động vốn dài hạn và khả thi cho tham vọng cơ sở hạ tầng của Việt Nam.
Trong bối cảnh này, chuyên gia VIS Rating tin rằng, bảo lãnh tín dụng và xếp hạng tín nhiệm là những công cụ quan trọng để khai thác vốn tư nhân cho dự án hạ tầng.
Bên cạnh đó, một nghị định sắp ban hành, cho phép chào bán trái phiếu hạ tầng ra công chúng mà không cần lịch sử tài chính, dự kiến sẽ tiếp tục mở khóa nguồn vốn trái phiếu cho dự án hạ tầng.
Trong khi điều kiện phát hành sẽ được nới lỏng, các biện pháp kiểm soát sau phát hành sẽ được siết chặt, chẳng hạn như thiết lập ngân hàng giám sát, tài khoản hạch toán độc lập và giải ngân theo tiến độ quy định, tạo nên khung pháp lý vững chắc hơn.