Sầu riêng và bài kiểm tra ngôi vương xuất khẩu

Từ 'tân binh' được nhập khẩu chính ngạch vào Trung Quốc, sầu riêng đã vọt lên thành nông sản xuất khẩu tỉ đô la Mỹ nhanh bậc nhất của Việt Nam. Nhưng để giữ vững ngôi vương, loại trái cây gai góc mà ngọt bùi này phải vượt qua một bài kiểm tra khắc nghiệt về kỷ luật chuỗi cung ứng và sự nghiêm minh trong thực thi kiểm soát chất lượng.

Ở cửa khẩu Hữu Nghị, chiếc xe container chở đầy sầu riêng từ miền Tây Nam bộ chậm rãi lăn bánh qua trạm. Với nông dân, chuyến hàng ấy là thành quả cả vụ mùa. Nhưng số phận của chúng - được bày trên kệ siêu thị ở Quảng Châu như món quà xa xỉ và hay bị trả ngược về - lại do những quy định khắt khe ở phía bên kia biên giới quyết định.

Cuối năm 2022, khi những lô sầu riêng đầu tiên của Việt Nam được phép thông quan chính ngạch sang Trung Quốc, nhiều người gọi đó là bước ngoặt. Chỉ một năm sau, kim ngạch xuất khẩu đã tăng vọt, đưa trái cây gai góc này thành mặt hàng nông sản xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhất nước. Viễn cảnh sầu riêng trở thành “vua” xuất khẩu rộng mở. Nhưng ngôi vương không hề dễ ngồi.

Cơn khát từ Trung Quốc và hệ quả tăng trưởng nóng

Nông dân thu hoạch sầu riêng tại một nhà vườn ở đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: Văn Cộng

Nông dân thu hoạch sầu riêng tại một nhà vườn ở đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: Văn Cộng

Trung Quốc là nhà nhập khẩu sầu riêng chính với khoảng 95% tổng lượng thương mại toàn cầu, theo Báo cáo Tổng quan về Thương mại sầu riêng toàn cầu 2023 của Tổ chức Nông lương Liên hiệp quốc (FAO). Năm 2024, Trung Quốc nhập khẩu 7 tỉ đô la Mỹ sầu riêng. Giai đoạn trước năm 2022, hơn 90% nguồn hàng này đến từ Thái Lan, phần còn lại chủ yếu từ Malaysia nhưng mức thị phần này đã có nhiều thay đổi khi Việt Nam gia nhập vào nguồn cung. Trong năm vừa qua, Thái Lan chiếm gần 60% nguồn cung sầu riêng sang Trung Quốc.

Sầu riêng không phải trái cây phổ biến như chuối hay táo. Ở Trung Quốc, nó được định vị là hàng xa xỉ, thậm chí là quà biếu, với mức giá 8-10 đô la mỗi ki lô gam, có khi lên tới 15 đô la/ki lô gam. Người tiêu dùng sẵn sàng chi, nhưng đi kèm là tiêu chuẩn khắt khe như vườn trồng phải có mã số, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật nằm trong mức giới hạn cho phép, truy xuất nguồn gốc minh bạch. Chỉ một lô hàng vượt ngưỡng Cadimi hay dính “Vàng O” cũng đủ để bị trả về, kéo theo uy tín quốc gia bị đặt lên bàn cân.

Việt Nam bước vào cuộc chơi với lợi thế nhất định khi có đến ba vùng trồng sầu riêng gối vụ. Ở đồng bằng sông Cửu Long, trái thu hoạch chính vụ vào tháng 4-5; tại Đông Nam bộ là tháng 5-6; và ở Tây Nguyên kéo dài đến tháng 8-10. Nhờ vậy, mùa vụ sầu riêng Việt Nam trải dài suốt nhiều tháng, tạo nguồn cung ổn định hơn so với các nước trong khu vực và tận dụng được khoảng trống khi thị trường khan hàng.

GS.TS. Trần Văn Hâu, nguyên giảng viên Đại học Cần Thơ, còn chia sẻ về một trong những lợi thế của ngành sầu riêng Việt Nam nằm ở kỹ thuật xử lý ra hoa nghịch vụ. Đây chính là “cửa sổ” giúp Việt Nam bán được giá cao hơn khi Thái Lan hay Campuchia khan hàng trong giai đoạn từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.

“Về cơ bản, khí hậu Đông Nam Á không quá khác biệt, nên yếu tố quyết định không phải là đất trời mà là kiến thức, kinh nghiệm và kỹ thuật của nông dân”, GS. Hâu nói. Tại đồng bằng sông Cửu Long - nơi người dân đã quen với kỹ thuật này - vụ nghịch được kiểm soát tốt hơn, nhờ vậy sản phẩm đáp ứng được thị trường ở thời điểm cung khan, cầu cao.

Nhưng những lợi thế ấy dễ dàng bị bào mòn bởi căn bệnh cố hữu như sản xuất nhỏ lẻ, hợp tác xã yếu, sử dụng hóa chất thiếu kiểm soát, dịch vụ chuỗi cung ứng lạnh cho trái sầu sau thu hoạch (logistics lạnh) còn mỏng manh.

Năm 2023, Việt Nam xuất khẩu hơn 600.000 tấn sầu riêng, thu về 2,2 tỉ đô la. Thành công ấy tạo ra một cơn sốt mở rộng diện tích. Quy hoạch của ngành đặt mục tiêu 65.000-70.000 héc ta, nhưng chỉ sau một năm diện tích đã tăng gấp đôi. Cây cà phê, cao su bị chặt bỏ để nhường đất cho sầu riêng.

Hệ quả là chuỗi cung ứng nhanh chóng bộc lộ lỗ hổng, như nhiều vườn sản xuất không đạt chuẩn kiểm dịch thực vật, dư lượng hóa chất cao, mã số vùng trồng bị lạm dụng, cạnh tranh thu mua - xuất khẩu thiếu lành mạnh. Tình trạng đơn phương phá vỡ cam kết trong các giao kèo chốt giá và đặt cọc sớm mỗi khi giá thị trường có biến động cũng khá phổ biến. Nhiều nhà vườn sẵn sàng cắt trái non không đảm bảo chất lượng cơm sầu mà không có chế tài nào cho quản lý chất lượng. Hệ quả là niềm tin giữa nông dân và doanh nghiệp bị xói mòn, thị trường trở nên hỗn loạn, còn các công ty muốn đầu tư chế biến sâu gặp khó khăn vì thiếu nguồn nguyên liệu ổn định.

Như vậy, nếu chỉ tăng diện tích, sớm muộn ngành cũng chạm trần cung - cầu và chịu sức ép môi trường, vì sầu riêng vốn là loại cây tốn nước.

Trong khi đó, Thái Lan vẫn đeo đuổi một kế hoạch dài hơi. Hàng chục năm qua, họ xây dựng vùng nguyên liệu, đầu tư công nghệ bảo quản hiện đại và thương hiệu sầu Monthong đã ăn sâu vào tâm trí người tiêu dùng Trung Quốc. Thái Lan cũng có một chiến lược quốc gia cho loại trái cây này với các quy định nghiêm ngặt về đảm bảo chất lượng và uy tín quốc gia. Mỗi trái sầu riêng đều mang tem nhãn, có đường dây nóng giải quyết khiếu nại, kèm theo chế tài khắt khe với hành vi cắt trái non, từ phạt tiền đến tiêu hủy hàng hóa. Cơ chế quản lý tập trung vào lợi ích cộng đồng, đa số nông dân tham gia hợp tác xã và ý thức về việc gìn giữ thương hiệu chung rất cao. Thành công của Thái Lan là sự kết hợp giữa chiến lược dài hạn, luật lệ chặt chẽ và tinh thần cộng đồng - điều mà Việt Nam cần học hỏi nếu muốn bứt phá trên thị trường toàn cầu.

Malaysia chọn hướng khác như bảo hộ giống Musang King, định vị ở phân khúc cao cấp, giá bán gấp đôi các đối thủ, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu cơm sầu tách múi đông lạnh để rộng cửa tới các thị trường Nhật Bản, châu Âu…

Đi tìm lối thoát chiến lược

Trong khi Nhật Bản, Úc đã cho phép nhập khẩu sầu đông lạnh, dĩ nhiên là có đính kèm quy định kiểm dịch khắt khe. Ở châu Âu, sầu riêng còn chưa phổ biến khi người tiêu dùng bản địa ngại mùi, nhưng cộng đồng gốc Á sẵn sàng trả giá cao để mua dùng. Sầu riêng cũng có thể ứng dụng trong những phân khúc giá trị gia tăng như trở thành hương liệu thực phẩm, dùng làm kem, bánh kẹo sầu riêng… Nhưng hiện 97% sản lượng sầu riêng Việt Nam được xuất sang Trung Quốc - nghĩa là chúng ta vẫn để ngỏ các thị trường khác ngoài Trung Quốc.

Tham gia chế biến sâu cũng có thể là hướng đi giúp Việt Nam thoát khỏi vòng lệ thuộc, đồng thời nâng cao giá trị thay vì chỉ bán nguyên liệu thô. Tuy nhiên, để trở thành sản phẩm chế biến sâu, nguồn nguyên liệu cần ổn định cả về chất lượng và giá cả.

Để trở thành loại trái cây đạt chuẩn cao, đầu tháng 8 này, Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành Quyết định 3015 về quy trình kiểm soát an toàn thực phẩm cho sầu riêng tươi xuất khẩu. Văn bản này chi tiết hóa yêu cầu ở mọi khâu từ vùng trồng, vận chuyển, đóng gói, thương nhân, kiểm nghiệm cho đến chứng nhận. Trên lý thuyết, các quy định này đã có từ lâu trong Luật An toàn thực phẩm 2010 và Thông tư 17/2021. Vấn đề không nằm ở luật, mà ở chỗ có thực thi nghiêm túc hay không.

Nhưng thực thi không dễ. Nhiều cơ sở đóng gói là hộ gia đình nhỏ, thiếu năng lực kiểm nghiệm. Thương lái vì chạy theo đơn hàng đã trộn lẫn trái đạt chuẩn với trái dưới chuẩn. Trên giấy tờ, hệ thống trông gọn gàng. Nhưng trên thực tế, nó vẫn còn chắp vá và mong manh.

Việc chuẩn hóa mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói cần được thực thi hiệu quả hơn. Tỷ lệ vi phạm hiện nay cho thấy giấy chứng nhận vô nghĩa nếu thiếu một sự giám sát độc lập. Việt Nam cần đẩy mạnh truy xuất nguồn gốc số hóa, tăng cường thanh tra độc lập và tập huấn nông dân. Bên cạnh đó, việc đầu tư hạ tầng sau thu hoạch cần được chú trọng. Kho lạnh, công nghệ chiếu xạ, dây chuyền vận chuyển chuyên dụng là mắt xích yếu trong chuỗi. Chính sách tín dụng và hợp tác công - tư có thể khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực này.

Đa dạng hóa thị trường và sản phẩm là điều cần quan tâm. Không thể đặt 97% xuất khẩu vào một giỏ. Phát triển sầu riêng đông lạnh, múi tách, sản phẩm chế biến sâu để khai thác các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, châu Âu. Song song với đó là đẩy mạnh công tác nghiên cứu phát triển giống bản địa đặc trưng nhằm tạo thương hiệu riêng cho trái sầu Việt Nam, giống như cách Malaysia làm với Musang King. Sầu riêng Việt Nam cần thương hiệu, nếu không, sẽ mãi là “hàng thay thế khi Thái Lan thiếu”. Một chiến dịch thương hiệu gắn với hình ảnh Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long có thể nâng tầm giá trị cho hàng hóa Việt Nam.

Tương lai của trái cây “vua” không chỉ được quyết định trong vườn cây, mà còn ở kho lạnh, phòng thí nghiệm và cửa khẩu hải quan. Nếu sự tuân thủ chỉ dừng lại ở hình thức, ngôi vương sẽ tuột khỏi tay. Nhưng nếu biết tận dụng thời cơ để chuẩn hóa, đầu tư hạ tầng và xây dựng được thương hiệu riêng, sầu riêng mới có thể bền vững thay vì một cơn sốt nhất thời. Và quan trọng hơn, nếu có một chiến lược quốc gia bài bản, sự đoàn kết và thay đổi tư duy từ tất cả các bên trong chuỗi cung ứng, sầu riêng Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành lựa chọn hàng đầu trên thị trường thế giới.

Hoàng Minh

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/sau-rieng-va-bai-kiem-tra-ngoi-vuong-xuat-khau/
Zalo