Sàn thương mại điện tử có thể phải nộp thuế thay cho người bán
Lãnh đạo ngành thuế cho rằng về kỹ thuật, các sàn thương mại điện tử hoàn toàn có thể thực hiện được việc cung cấp thông tin, khai và nộp thuế thay người bán.
Với mục tiêu tạo nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội thông qua mở rộng cơ sở thu, chống thất thu thuế, nhất là hoạt động thương mại điện tử (TMĐT), kinh doanh dựa trên nền tảng số, Bộ Tài chính ngày 4.11 cho biết đã chính thức đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Luật Quản lý thuế. Trong đó có đề xuất bổ sung quy định các sàn TMĐT có chức năng thanh toán có trách nhiệm khấu trừ, kê khai, nộp thuế thay cho hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh.
Tại Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Quản lý sử dụng tài sản công, Luật Quản lý thuế và Luật Dự trữ quốc gia, liên quan đến nội dung sửa Luật Quản lý thuế, Bộ Tài chính đề xuất bổ sung quy định các sàn TMĐT có chức năng thanh toán có trách nhiệm khấu trừ, kê khai, nộp thuế thay cho hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh.
Đồng thời, đề nghị sửa đổi quy định liên quan nhà cung cấp ở nước ngoài khi thực hiện hoạt động kinh doanh TMĐT, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác tại Việt Nam không phân biệt có hay không có cơ sở thường trú tại Việt Nam đều phải kê khai, nộp thuế qua Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế.
Lý giải về đề xuất trên, theo Bộ Tài chính, khái niệm về "cơ sở thường trú" hiện nay chỉ có tại quy định của pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp (thuế TNDN) và trong việc áp dụng hiệp định tránh đánh thuế 2 lần giữa Việt Nam và các quốc gia, vùng lãnh thổ.
Quy định tại khoản 4 điều 42 Luật Quản lý thuế hiện hành dẫn đến một số nhà cung cấp nước ngoài cho rằng, trường hợp họ có hình thành cơ sở thường trú tại Việt Nam thì họ không thuộc đối tượng phải đăng ký thuế, kê khai nộp thuế theo quy định tại khoản 4 điều 42 Luật Quản lý thuế. Trong trường hợp này, họ chỉ thuộc đối tượng nộp thuế TNDN trên phần lợi nhuận phân bổ cho cơ sở thường trú theo quy định của pháp luật thuế TNDN và Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật về thuế giá trị gia tăng (thuế GTGT) và pháp luật về thuế TNDN thì các nhà cung cấp nước ngoài khi thực hiện hoạt động kinh doanh TMĐT, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác tại Việt Nam thì nhà cung cấp nước ngoài thuộc đối tượng nộp thuế TNDN và thuế GTGT.
Cũng theo Bộ Tài chính, chính sách hiện hành về khai thuế, nộp thuế đối với các hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có phát sinh hoạt động kinh doanh TMĐT chưa có quy định riêng mà áp dụng chung quy định như đối với hộ, cá nhân kinh doanh truyền thống do đó đang tồn tại bất cập, vướng mắc. Bên cạnh đó chưa có giải pháp quản lý hiệu quả đối với các mô hình kinh doanh qua sàn giao dịch TMĐT.
Theo quy định hiện hành, hộ, cá nhân kinh doanh thông qua sàn TMĐT có trách nhiệm tự kê khai, tự nộp thuế, tự chịu trách nhiệm. Cơ quan thuế quản lý thuế đối với các hộ, cá nhân kinh doanh trên sàn thông qua cơ chế yêu cầu sàn TMĐT cung cấp thông tin và thu thập thông tin từ bên thứ 3 để rà soát đưa vào diện quản lý, yêu cầu kê khai phù hợp thực tế, điều chỉnh doanh thu hoặc xử lý truy thu.
Pháp luật hiện hành đã quy định một số trường hợp khai thay, nộp thay cho các hộ, cá nhân kinh doanh TMĐT bao gồm: Tổ chức hợp tác kinh doanh với cá nhân, tổ chức trong nước là đối tác của nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam thực hiện chi trả thu nhập từ sản phẩm, dịch vụ nội dung thông tin số cho cá nhân theo thỏa thuận với nhà cung cấp nước ngoài; sàn giao dịch TMĐT thực hiện việc khai thuế thay, nộp thuế thay cho cá nhân trên cơ sở ủy quyền theo quy định của pháp luật dân sự (chỉ thực hiện khi có ủy quyền dân sự của hộ, cá nhân kinh doanh). Do đó, cần có giải pháp quản lý hiệu quả hơn đối với mô hình kinh doanh qua sàn TMĐT.
Ngoài ra, theo kinh nghiệm quốc tế về triển khai cơ chế sàn TMĐT kê khai, nộp thuế thay cho người bán: đây là nội dung được khuyến nghị triển khai trong các tài liệu, nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), các tổ chức quốc tế khác (IMF, ADB,...), cũng như đã chứng minh thực tế hiệu quả triển khai của các nước tiên tiến trên thế giới và trong khu vực (Anh, EU, Úc, Thái Lan, Đài Loan,...).
Do đó, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung tại khoản 4 điều 42 về nguyên tắc khai thuế, tính thuế nhằm mở rộng cơ sở thu, đảm bảo công bằng, bình đẳng trong hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số. Theo đó, đề xuất sửa đổi bỏ cụm từ "không có cơ sở thường trú tại Việt Nam" đối với nhà cung cấp ở nước ngoài khi thực hiện hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác tại Việt Nam để không phân biệt có hay không có cơ sở thường trú tại Việt Nam đều phải kê khai, nộp thuế qua Cổng Thông tin điện tử của Tổng cục Thuế.
Đồng thời, đề xuất bổ sung quy định trường hợp tổ chức là nhà quản lý sàn giao dịch TMĐT có chức năng thanh toán có trách nhiệm khấu trừ, kê khai, nộp thuế thay cho hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có phát sinh hoạt động kinh doanh thương mại điện tử thông qua sàn giao dịch thương mại điện tử để cải cách thủ tục hành chính, tập trung đầu mối kê khai, đáp ứng việc kê khai, nộp thuế phù hợp với đặc thù của hoạt động kinh doanh TMĐT.
Một nội dung quan trọng khác tại dự án luật là đề xuất sửa đổi, bổ sung khoản 11 điều 15 Luật Quản lý thuế quy định về khai thác, chia sẻ dữ liệu giữa cơ quan thuế với các cơ quan liên quan theo hướng quy định Bộ Công Thương, Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giao thông vận tải và các bộ ngành liên quan có trách nhiệm phối hợp xây dựng cơ sở dữ liệu, cung cấp thông tin, kết nối để chia sẻ dữ liệu liên quan đến các đối tượng kinh doanh trong lĩnh vực thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng số để phục vụ công tác quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử. Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, trung gian thanh toán và các ngân hàng khác có trách nhiệm chia sẻ dữ liệu, cung cấp thông tin liên quan đến giao dịch trong lĩnh vực thuế, số liệu giao dịch TMĐT.
Theo Bộ Tài chính, qua thực tiễn, việc định danh, xác thực cá nhân, tổ chức là vấn đề quan trọng để phòng ngừa các hành vi gian lận, trốn thuế trong hoạt động thương mại điện tử. Tuy nhiên việc kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin của các bộ ngành, địa phương về hộ tịch, thuế, ngân hàng, viễn thông... được đánh giá là còn chậm và chưa đồng bộ.
Việc chia sẻ dữ liệu giữa các bộ ngành trong thời gian qua chủ yếu theo phương thức thủ công, chưa được thực hiện theo hình thức điện tử để đảm bảo chính xác, thường xuyên, liên tục, đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý. Công tác phối hợp giữa các bộ ngành để quản lý đối với hoạt động TMĐT chưa thực sự hiệu quả. Do đó cần thiết bổ sung sửa đổi quy định như trên để công tác cung cấp, chia sẻ, kết nối thông tin đạt kết quả tốt hơn.
Doanh thu thuế từ TMĐT tăng đều qua các năm, từ 83.000 tỉ đồng (2022) lên 97.000 tỉ đồng (2023) và 7 tháng đầu năm nay đạt hơn 78.000 tỉ đồng. Sự gia tăng mạnh mẽ này đến từ các doanh nghiệp trong nước và các nền tảng quốc tế như Google, Facebook và Amazon.