Quy hoạch tài nguyên nước để phát triển bền vững
Trước thực trạng biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường ngày một gia tăng và nhu cầu sử dụng nước cũng ngày một lớn, thì vấn đề quản lý tài nguyên nước bền vững không còn là lựa chọn mà đã trở thành yêu cầu cấp bách…

Bảo vệ và phục hồi các dòng sông là nhiệm vụ rất quan trọng. Ảnh: Lê Minh
Theo giới chuyên gia môi trường, Việt Nam vốn sở hữu hệ thống sông ngòi phong phú, vậy nhưng do tình trạng khai thác nước quá mức và ô nhiễm ngày càng gia tăng, đặt ra những thách thức nghiêm trọng. Đặc biệt, trong bối cảnh biến đổi khí hậu và nhu cầu sử dụng nước ngày càng lớn, quản lý tài nguyên nước bền vững không còn là một lựa chọn, mà đã trở thành yêu cầu cấp thiết.
Vẫn theo giới chuyên gia môi trường, trước thực trạng trên, việc bảo tồn và phục hồi các dòng sông, qua đó hướng tới thích ứng với tình trạng nguồn nước suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm. Điều này không chỉ góp phần bảo vệ tài nguyên nước mà còn giúp Việt Nam hợp tác với các quốc gia trong khu vực để quản lý nguồn nước một cách cân bằng, thống nhất, đảm bảo an ninh nguồn nước và phát triển bền vững.
Như tỉnh Hưng Yên, là địa phương mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, với các hệ thống sông lớn như sông Hồng, sông Luộc… Đặc biệt có hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải qua địa phận tỉnh dài 34,5 km, cung cấp nước cho khoảng 38.000 ha đất nông nghiệp, 12.000 ha nuôi thủy sản và cấp nước sinh hoạt cho khoảng 500.000 dân trong tỉnh. Tuy nhiên, kết quả quan trắc trong 3 năm qua cho thấy nước các nhánh sông chảy vào hệ thống thủy lợi này bị ô nhiễm bởi chất hữu cơ, vi sinh như BOD5, COD, TSS... Trong đó, COD vượt từ 1,003 - 1,77 lần; BOD5 vượt từ 1,01 - 1,76 lần; NO2- vượt từ 1,01 - 10,82 lần; tổng dầu mỡ vượt 1,24 - 2,96 lần.
Là địa phương được đánh giá có mạng lưới sông, suối khá dày, hiện trên địa bàn Quảng Ninh có 67 sông, suối có chiều dài hơn 10km. Ngoài ra còn 176 hồ chứa nước mặt với tổng dung lượng nước khai thác trên 396 triệu m3/năm phục vụ sản xuất, sinh hoạt. Vậy nhưng do địa hình của tỉnh chia cắt, tình trạng khai thác nước ngầm quá mức, đặc biệt, một số cơ sở nhà hàng, khách sạn trên địa bàn tỉnh đang khai thác, sử dụng nước thuộc trường hợp phải làm thủ tục cấp phép, nhưng chưa thực hiện đúng, khai thác không phép, không đăng ký theo quy định… dẫn đến nguy cơ cạn kiệt.
Điển hình, năm 2020 nhiều hồ chứa nước trên địa bàn tỉnh rơi vào tình trạng khô hạn, gây thiếu nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất đối với các địa phương. Hiện nay tổng nhu cầu sử dụng nước của tỉnh là 431,28 triệu m3/năm. Trong khi đó, theo tính toán của các cơ quan chuyên môn, với tốc độ tăng trưởng như những năm qua, dự kiến vào năm 2025, Quảng Ninh sẽ thiếu trên 1 triệu m3 nước, năm 2030 thiếu trên 2,6 triệu m3 nước. Đây là thách thức rất lớn đặt ra cho mục tiêu phát triển của địa phương trong thời gian tới…
Theo TS Nguyễn Minh Khuyến - Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Việt Nam có khoảng 60% lượng nước được sản sinh từ ngoài biên giới. Chính vì vậy, vấn đề hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tài nguyên nước luôn là vấn đề hết sức quan trọng, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu, gia tăng nhu cầu sử dụng nước và ô nhiễm nguồn nước ngày càng diễn ra phức tạp như hiện nay.
Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước cho biết thêm, trong bối cảnh biến đổi khí hậu và nhu cầu sử dụng nước ngày càng gia tăng, quản lý tài nguyên nước bền vững không còn là lựa chọn mà đã trở thành yêu cầu cấp bách. Đặc biệt, việc triển khai quy hoạch tài nguyên nước các lưu vực sông đang đặt ra những đòi hỏi mới về công cụ quản lý, phương pháp tiếp cận và nguồn lực thực hiện.
Hiện Cục Quản lý tài nguyên nước đang nghiên cứu thí điểm việc quản trị tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số thông qua việc thí điểm xã hội hóa, khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư xây dựng, vận hành hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia và hệ thống hỗ trợ ra quyết định trên các lưu vực sông để cơ quan quản lý nhà nước sử dụng, thuê dịch vụ nhằm điều hòa, phân phối tài nguyên nước cho các hoạt động phát triển kinh tế xã hội trên các lưu vực sông và giảm thiểu chi phí, nhân lực của Nhà nước.