Quy định 2 trường hợp tạm đình chỉ nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định tạm đình chỉ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội trong 2 trường hợp.
Tiếp tục chương trình Kỳ họp bất thường lần thứ 9, chiều 17/2, với 461/461 đại biểu có mặt tán thành, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội.

Quốc hội "bấm nút" thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội. (Ảnh: quochoi.vn)
2 trường hợp tạm đình chỉ nhiệm vụ ĐBQH
Một trong những nội dung đáng chú ý tại luật mới được Quốc hội thông qua là việc tạm đình chỉ hoặc mất quyền đại biểu Quốc hội (Điều 39).
Theo đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định tạm đình chỉ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội trong 2 trường hợp.
Một là đại biểu Quốc hội bị khởi tố bị can.
Hai là trong quá trình xem xét, xử lý vi phạm của đại biểu Quốc hội, có cơ sở xác định phải xử lý kỷ luật từ cảnh cáo trở lên đối với đại biểu Quốc hội là cán bộ, công chức, viên chức hoặc xử lý bằng pháp luật hình sự mà cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đã có văn bản đề nghị tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội.
Bên cạnh đó, luật cũng quy định cụ thể việc đại biểu Quốc hội được trở lại thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu và khôi phục các lợi ích hợp pháp khi cơ quan có thẩm quyền có quyết định, kết luận về việc không có vi phạm, không xử lý kỷ luật, quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án đối với đại biểu đó hoặc kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật tuyên đại biểu đó không có tội hoặc được miễn trách nhiệm hình sự.
Trường hợp đại biểu Quốc hội bị xử lý kỷ luật thì tùy theo tính chất, mức độ mà có thể xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định việc cho trở lại thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu hay đề nghị Quốc hội bãi nhiệm đại biểu Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội bị kết tội bằng bản án, quyết định của Tòa án, theo quy định của luật, đương nhiên mất quyền đại biểu Quốc hội kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Sửa "kỳ họp bất thường" thành "kỳ họp không thường lệ"
Liên quan đến quy định kỳ họp Quốc hội (Điều 90), một số ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị thay cụm từ "Quốc hội họp bất thường" tại khoản 2 thành "Quốc hội họp không thường lệ" hoặc Quốc hội có kỳ họp chuyên đề.
Trên cơ sở các phương án đề xuất của đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu và đề nghị sửa đổi, bổ sung theo hướng cụ thể hóa quy định về "Quốc hội họp bất thường" tại khoản 2 Điều 83 của Hiến pháp thành "kỳ họp không thường lệ".
Theo đó, kỳ họp không thường lệ của Quốc hội được tổ chức khi có yêu cầu của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội để kịp thời xem xét, quyết định các vấn đề cấp bách thuộc thẩm quyền của Quốc hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ tiếp tục nghiên cứu việc đánh số các kỳ họp thường lệ và không thường lệ của Quốc hội cho phù hợp để thực hiện thống nhất từ nhiệm kỳ sau.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội có hiệu lực thi hành từ ngày được Quốc hội thông qua, nhằm bảo đảm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy và công tác cán bộ, bảo đảm đồng bộ, thống nhất với việc sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.