Quốc hội có thể làm luật 'đúng vai, tròn vai'?
Có ý kiến cho rằng, quy định Quốc hội (QH) làm luật là không đúng, QH không thể làm luật mà chỉ thông qua luật do Chính phủ và các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trình. Ý kiến đó có xác đáng?
Gần đây, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn khẳng định: Quốc hội cần làm đúng vai, tròn vai. Câu nói nôm na, giản dị và đầy hàm ý đó của Chủ tịch Trần Thanh Mẫn, cùng chỉ đạo sắc bén, quyết liệt của Tổng Bí thư Tô Lâm đang được quán triệt mạnh mẽ trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội mà có lẽ rõ ràng nhất là trong hoạt động lập pháp.
Theo quy định của Hiến pháp (Điều 69), lập hiến, lập pháp là một trong các chức năng quan trọng nhất của QH, cùng với chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Hiến pháp (Khoản 1, Điều 70) quy định cụ thể hơn chức năng lập hiến, lập pháp của QH là làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật.
Bài này xin được tập trung vào vai lập pháp làm luật và sửa đổi luật, gọi chung là làm luật của QH.
Trước hết cần nói thêm về luật. Luật, gồm cả Bộ luật được nhận thức thống nhất tuyệt đối là văn bản pháp luật, chính xác hơn là văn bản quy phạm pháp luật do QH ban hành và được Chủ tịch nước công bố, có hiệu lực pháp lý cao nhất sau Hiến pháp. Luật phải phù hợp với Hiến pháp, mọi văn bản pháp luật dưới luật phải phù hợp với Hiến pháp và luật.

Các Đại biểu tham dự Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV. Ảnh: Cổng thông tin điện tử Quốc hội
Luật quy định những nội dung gì là đúng vai lập pháp của QH?
Thứ nhất, luật cụ thể hóa những nội dung mà Hiến pháp bắt buộc phải quy định bằng luật (*).
Ngoài ra, theo Điều 70 của Hiến pháp về nhiệm vụ, quyền hạn của QH, còn có những nội dung phải do QH quy định, tức là bắt buộc quy định bằng luật hoặc bằng nghị quyết của QH.
Nhiều nội dung khác của Hiến pháp được quy định mở, có tính chất tùy chọn, cho phép QH ban hành luật, nghị quyết hoặc cơ quan khác của Nhà nước, cá nhân có thẩm quyền ban hành văn bản dưới luật tùy theo tính chất của vấn đề và yêu cầu điều chỉnh bằng loại văn bản pháp luật nào là phù hợp nhất.
Tuy nhiên, theo thông lệ, chủ yếu các nội dung này của Hiến pháp được cụ thể hóa bằng luật hoặc nghị quyết của QH.
Thứ hai, Luật thể chế hóa những nội dung cần quy định bằng luật được ghi trong Cương lĩnh, nghị quyết Đại hội Đảng và Nghị quyết, Kết luận của BCHTW, Bộ Chính trị.
Thứ ba, luật quy định những nội dung cam kết của Nhà nước cần phải được nội luật hóa để thực các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Thứ tư, ngoài các trường hợp nói trên, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền trình dự án luật, kiến nghị về luật trước QH theo Điều 84 của Hiến pháp, có thể đề xuất những nội dung khác mà mình thấy cần quy định bằng luật để QH xem xét, quyết định.
Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất thì sự phân công, phối hợp rõ ràng, hợp lý, khoa học và sự kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; sự phân phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương theo nguyên tắc "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm" cũng là cơ sở rất quan trọng bảo đảm cho QH lập pháp đúng vai.
QH và chức năng lập pháp tròn vai
Lập pháp đúng vai dễ xác định do có cơ sở Hiến định và luật định khá rõ ràng, cụ thể và ngày càng hoàn thiện. Trong khi đó lập pháp tròn vai là vấn đề cần được tiếp tục phân tích, đánh giá.
Có thể nêu một số tiêu chí mà mỗi luật và cả hệ thống luật cần đáp ứng, cho thấy hoạt động lập pháp của QH tròn vai như sau:
Tính Đảng, tính hợp hiến, tính khoa học, tính chuyên nghiệp, tính tuân thủ quy trình, thủ tục lập pháp do luật định.
Tính đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, nhất quán và kịp thời của hệ thống luật theo đúng định hướng và chương trình lập pháp trên cơ sở bảo đảm quyền trình dự án luật, kiến nghị về luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của Hiến pháp.
Tính đầy đủ, bao quát phạm vi điều chỉnh, các đối tượng áp dụng, dự liệu được các tình huống phát sinh, các ngoại lệ, đặc thù cần giải quyết, xử lý trong luật.
Tính nguyên tắc, tính chất khung hợp lý của luật, bảo đảm sự điều chỉnh ổn định, đồng thời tạo sự linh hoạt trong quản lý, điều hành của CP, CQĐP và hoạt động của các cơ quan tư pháp, kiểm toán.
Tính cụ thể trong những trường hợp cần thiết, tính minh bạch, dễ hiểu, dễ tiếp cận, dễ áp dụng, chấp hành luật đối với các chủ thể có liên quan và dễ dự báo, dễ tiên lượng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các đầu tư, bảo đảm cho luật có thể trực tiếp và nhanh chóng đi vào cuộc sống mà không phải chờ ban hành quá nhiều văn bản hướng dẫn thi hành.
Tính nghiêm minh, công bằng, dân chủ, nhân văn, nhân đạo, tiến bộ, bao trùm và thúc đẩy phát triển.
Tính dân tộc, tính hiện đại, tính hội nhập quốc tế.
Tính khả thi, hiệu lực, hiệu quả cao và đầy đủ.
QH lập pháp (làm luật) đúng vai, tròn vai bằng cách nào?
Tại Hội thảo “Điểm nghẽn thể chế và các giải pháp đột phá để phát triển” do Hiệp hội Khoa học Hành chính Việt Nam tổ chức, có ý kiến cho rằng quy định QH làm luật là không đúng, QH không thể làm luật mà chỉ thông qua luật do Chính phủ và các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trình.
Trao đổi lại, TS Nguyễn Văn Thuận, nguyên Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của QH cho biết, khái niệm “QH làm luật“ đã được cố Tổng Bí thư, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh dùng và được thể hiện trong Hiến pháp năm 1980.
Trong lịch sử lập hiến của nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên đã sử dụng khái niệm “QH làm pháp luật“ và khái niệm này được ghi trong Hiến pháp năm 1959.
Trên thế giới, ở nhiều nước khái niệm “QH là cơ quan lập pháp“ (Legislative Body) hoặc khái niệm “QH là cơ quan làm luật” (Lawmaking Body) cũng được sử dụng phổ biến. Nghị sĩ, đại biểu quốc hội cũng thường được gọi là Nhà làm luật (Law maker).
Ở nước ta, khi nói QH làm luật không có nghĩa là QH tự mình nghiên cứu, đề xuất, xây dựng chính sách lập pháp, tự mình biên tập, soạn thảo, hoàn chỉnh dự án Luật để thông qua (ban hành).
Hiến pháp quy định QH làm luật (Điều 70), đồng thời quy định các cơ quan, tổ chức, cá nhân trình dự án luật (Điều 84); Chính phủ đề xuất, xây dựng chính sách trình QH quyết định, trình dự án luật trước QH (Khoản 2 Điều 96 ); HĐDT và các Ủy ban của QH thẩm tra dự án luật (Điều 75 và Điều 76); QH biểu quyết thông qua luật (Điều 85); Chủ tịch nước công bố luật (Điều 85 và Điều 88).
Căn cứ Hiến pháp, Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 và dự án Luật Ban hành VBQPPL năm 2025 dự kiến sẽ được thông qua tới đây, quy định cụ thể về xây dựng, ban hành luật, cho thấy rõ hơn QH làm luật là cả một quá trình từ xây dựng, phê duyệt, quyết định định hướng, chương trình lập pháp của QH; phân công cơ quan, tổ chức, cá nhân đề xuất, xây dựng chính sách, soạn thảo, trình dự án luật; thẩm tra, cho ý kiến để QH xem xét, quyết định.
Như vậy, khái niệm “QH làm luật” cần được hiểu theo nghĩa rộng, là một quá trình với sự tham gia và trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân nói trên. Trong đó, QH, dưới sự lãnh đạo của Đảng và chịu trách nhiệm trước Nhân dân có vai trò chủ trì, chủ đạo và là cơ quan có thẩm quyền quyết định cuối cùng.
Trong cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, chỉ đạo, Quốc hội Việt Nam ta sẽ có sự phát triển đột phá theo hướng tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả, làm việc đúng vai, tròn vai hơn trước, sẵn sàng bước vào Kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc Việt Nam.
(*) Tại các điều 14, 19, 20, 21, 22, 27, 31, 47, 54, 55, 80, 96, 101, 105, 107, 108, 110, 111, 112, 113, 117, 118 và 119.