Quốc hội 'chốt' chủ trương đầu tư dự án đường sắt quy mô hơn 8 tỷ USD
Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư dự án đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng với tỷ lệ tán thành cao…

Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư dự án đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng
Kỳ họp bất thường lần thứ 9, sáng 19/2, Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư dự án đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng. Kết quả biểu quyết điện tử cho thấy, có 455/459 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 95,19% tổng số đại biểu Quốc hội.
Tại phiên họp, trước khi Quốc hội tiến hành biểu quyết, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội - Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Tùng trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về chủ trương đầu tư dự án đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng. Ông Tùng nêu rõ Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội.
Theo Nghị quyết, dự án đường sắt được thực hiện nhằm mục tiêu xây dựng tuyến đường sắt mới hiện đại, đồng bộ nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải nội địa, liên vận quốc tế giữa Việt Nam và Trung Quốc; tạo động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, phát huy lợi thế trên hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, bảo đảm kết nối hiệu quả các mạng lưới đường sắt trong nước và quốc tế, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; góp phần hiện thực hóa mục tiêu, nhiệm vụ theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII và các Nghị quyết của Đảng.
Về phạm vi đầu tư, điểm đầu tại vị trí nối ray qua biên giới (tỉnh Lào Cai), điểm cuối tại ga Lạch Huyện (thành phố Hải Phòng); chiều dài tuyến chính khoảng 390,9 km; chiều dài các tuyến nhánh khoảng 27,9 km; đi qua địa phận 09 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm: Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thủ đô Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương và Hải Phòng;
Về quy mô, đầu tư mới toàn tuyến đường đơn, khổ 1.435 mm; vận chuyển chung hành khách, hàng hóa; tốc độ thiết kế 160 km/h đối với tuyến chính đoạn từ ga Lào Cai mới đến ga Nam Hải Phòng, tốc độ thiết kế 120 km/h đối với đoạn qua khu vực đầu mối thành phố Hà Nội, tốc độ thiết kế 80 km/h đối với các đoạn tuyến còn lại.
Hình thức đầu tư đầu tư công. Sơ bộ tổng nhu cầu sử dụng đất khoảng 2.632ha, gồm đất trồng lúa khoảng 716ha (trong đó đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên khoảng 709ha), đất lâm nghiệp khoảng 878ha, các loại đất khác theo quy định của pháp luật về đất đai khoảng 1.038ha.
Sơ bộ số dân tái định cư khoảng 19.136 người. Sơ bộ tổng mức đầu tư của dự án là 203.231 tỷ đồng (hơn 8 tỷ USD). Nguồn vốn ngân sách nhà nước bố trí trong các kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn và nguồn vốn hợp pháp khác.
Tiến độ thực hiện theo nghị quyết là lập báo cáo nghiên cứu khả thi từ năm 2025, phấn đấu hoàn thành dự án chậm nhất vào năm 2030.
Tại Nghị quyết cũng quyết nghị, dự án được áp dụng công nghệ đường sắt chạy trên ray, điện khí hóa; bảo đảm hiện đại, đồng bộ, an toàn và hiệu quả. Đồng thời, dự án được áp dụng các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt... Trong đó, dự án không phải thực hiện việc thẩm định khả năng cân đối vốn theo quy định của Luật Đầu tư công.
Về thẩm quyền quyết định điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án, điều chỉnh dự án, trong thời gian Quốc hội không họp, Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án, trừ trường hợp điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư của dự án. Ngoài ra, Bộ trưởng Bộ Xây dựng quyết định điều chỉnh dự án đối với các trường hợp: khi điều chỉnh quy hoạch ảnh hưởng trực tiếp tới dự án; do ảnh hưởng của sự cố thiên tai, hỏa hoạn hoặc yếu tố bất khả kháng khác khi đã hết thời gian bảo hiểm của dự án; chỉ số giá trong thời gian thực hiện dự án lớn hơn chỉ số giá được sử dụng để tính dự phòng trong tổng mức đầu tư dự án.