Quản lý rừng cải tiến: Giải pháp kép về kinh tế và môi trường
Quản lý rừng cải tiến (IFM) được đánh giá là hướng đi phù hợp cho rừng trồng, vốn có hơn 2 triệu héc ta ở Việt Nam khi vừa tăng khả năng hấp thụ carbon, giảm phát thải khí nhà kính, mang lại lợi ích kinh tế.

Quản lý rừng cải tiến (IFM) được đánh giá là hướng đi phù hợp cho rừng trồng gỗ ở Việt Nam. Ảnh: H.P
IMF có thể hiểu là tập hợp các biện pháp giúp các khu rừng hiện có tăng cường khả năng cô lập và lưu trữ carbon thông qua các kỹ thuật quản lý bền vững và tối ưu hóa việc quản lý các khu vực rừng hiện có.
Ngoài ra, IFM cũng được xem là một cách tiếp cận có liên quan chặt chẽ với Quản lý rừng bền vững (SMF), đồng thời gắn với mục tiêu của Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Việt Nam (VFDS ) và cam kết Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) năm 2022. Đây là thông tin trong tài liệu về “Tiềm năng hấp thụ carbon của rừng trồng keo khi chuyển sang chu kỳ dài” vừa được Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) GmbH công bố gần đây.
Hiện nay, với mô hình trồng rừng chu kỳ ngắn phổ biến tại các khu rừng sản xuất ở Việt Nam, các khu rừng trồng có nguồn dự trữ sinh khối thấp, IFM có tiềm năng đáng kể trong việc tăng sinh khối và do đó tăng dự trữ carbon ở Việt Nam.
GIZ cho biết, để đào tạo các chủ rừng về cách xác định các đường cơ sở và ước tính lượng giảm phát thải cho một dự án carbon giả định, đã có một dự án nghiên cứu được thực hiện từ tháng 9 đến tháng 12-2024 tại Công ty lâm nghiệp Quy Nhơn và Công ty lâm nghiệp Sông Kôn ở tỉnh Bình Định (cũ).
Dự án Nhân rộng Quản lý Rừng Bền vững và Chứng chỉ Rừng tại Việt Nam (SFM) do GIZ cùng phối hợp với Ban Quản lý các Dự án Lâm nghiệp (MBFP) trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường (MAE) thực hiện. Dữ liệu thu được cho thấy tiềm năng hấp thụ carbon đáng kể của rừng trồng keo lai tại Việt Nam thông qua việc kéo dài chu kỳ.
Đồng thời, kết quả nghiên cứu cũng phản ánh việc chuyển đổi từ mô hình sản xuất sinh khối sang mô hình sản xuất gỗ lớn thông qua các biện pháp lâm sinh và kéo dài chu kỳ từ 5 lên 11 năm có thể dẫn đến trữ lượng carbon trung bình dài hạn đạt 221 tấn carbon/héc ta cho chu kỳ 11 năm (kịch bản dự án) so với 78 tấn carbon/héc ta cho chu kỳ 5 năm (kịch bản cơ sở). Do vậy IMF có thể được xem là một giải pháp kép, đảm bảo được mục tiêu kinh tế lẫn bảo vệ môi trường.
Hiện Việt Nam có hơn 2 triệu héc ta rừng trồng, trong đó hơn một nửa là rừng trồng keo mà các tỉnh phía Nam gọi là cây tràm. Phần lớn rừng trồng keo 5 năm thu hoạch một lần lấy sản phẩm bán cho nguyên liệu giấy hoặc làm nguyên liệu băm dăm gỗ xuất khẩu.