Quản lý an toàn thực phẩm: Hoàn hiện quy định để đáp ứng yêu cầu thực tế
Luật An toàn thực phẩm (năm 2010) đã có những đóng góp quan trọng trong việc xây dựng hệ thống pháp luật về an toàn thực phẩm, nhưng theo thời gian, các quy định của Luật đã bộc lộ nhiều hạn chế, cần sửa đổi, hoàn thiện để đáp ứng tốt hơn tình hình thực tế.
Triển khai chưa đồng bộ, thiếu hiệu quả
Luật An toàn thực phẩm năm 2010 quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm đối với 3 bộ: Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công thương. Tuy nhiên, mô hình quản lý an toàn thực phẩm chưa được triển khai thống nhất và đồng bộ từ trung ương đến địa phương.
Mặc dù đã có sự phân cấp rõ ràng, nhưng thực tế cho thấy, có sự chồng chéo trong quản lý giữa các bộ và các cơ quan địa phương, đặc biệt đối với các sản phẩm có sự “giao thoa” giữa các bộ, ngành. Điều này tạo ra những khó khăn trong việc triển khai thủ tục hành chính và xác định cơ quan có thẩm quyền xử lý.
Bên cạnh đó, dù có những mô hình quản lý an toàn thực phẩm cấp địa phương được thử nghiệm ở một số thành phố như TP.HCM, Đà Nẵng và Bắc Ninh, nhưng hệ thống quản lý tại các địa phương vẫn thiếu đồng bộ và thiếu nguồn lực. Việc thiếu cán bộ chuyên trách và sự chồng chéo trong các quy định pháp lý đã gây khó khăn trong việc thực thi các chính sách quản lý an toàn thực phẩm, đặc biệt là đối với những cơ sở sản xuất nhỏ và quy mô hộ gia đình.
Theo bà Trần Việt Nga, Cục trưởng Cục An toàn thực phẩm (Bộ Y tế), các văn bản hướng dẫn thi hành Luật An toàn thực phẩm hiện nay còn thiếu đồng bộ và thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng. Điều này dẫn đến tình trạng các quy định pháp lý không rõ ràng, gây khó khăn cho các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất thực phẩm trong việc thực hiện thủ tục hành chính, cũng như việc đảm bảo tuân thủ đúng các quy định về an toàn thực phẩm.
Việc chuyển từ hệ thống kiểm tra “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” theo Nghị định số 15/2018/NĐ-CP đã tạo ra một số thuận lợi cho doanh nghiệp, tuy nhiên, công tác hậu kiểm hiện vẫn gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là thiếu hụt nguồn lực, trang thiết bị và kinh phí cho công tác kiểm tra chất lượng thực phẩm, dẫn đến tình trạng phát hiện vi phạm an toàn thực phẩm chậm và thiếu hiệu quả.
Cần thiết sửa Luật An toàn thực phẩm
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, lãnh đạo Cục An toàn thực phẩm cho biết, đơn vị đang đề xuất các quy định mới trong Dự thảo Luật An toàn thực phẩm. Cụ thể, các cơ quan chức năng cần tăng cường tổ chức bộ máy chuyên trách quản lý an toàn thực phẩm tại cấp huyện và xã để đảm bảo việc kiểm soát thực phẩm được thực hiện đầy đủ, hiệu quả. Điều này sẽ giúp các địa phương kiểm soát chặt chẽ hơn các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, nơi dễ xảy ra vi phạm an toàn thực phẩm và giúp các cơ quan chức năng xử lý kịp thời các vi phạm.
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp lý về an toàn thực phẩm cần đảm bảo sự đồng bộ giữa các văn bản pháp luật, từ đó tạo khung khổ pháp lý thống nhất và dễ thực hiện. Quy định về chứng nhận hợp quy, quản lý chất lượng thực phẩm cần được điều chỉnh để phù hợp với thực tế sản xuất, đặc biệt là đối với các hộ sản xuất nhỏ lẻ, nhưng có sản lượng lớn. Đồng thời, cần có các quy định rõ ràng về công tác điều tra ngộ độc thực phẩm và việc thu hồi giấy tiếp nhận bản công bố hợp quy.
Để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, cần đầu tư vào công tác hậu kiểm, bao gồm cải thiện trang thiết bị kiểm nghiệm, đào tạo nhân lực chuyên môn, cấp thêm kinh phí cho công tác kiểm tra an toàn thực phẩm.
Một giải pháp quan trọng không thể thiếu là tăng cường tuyên truyền và giáo dục cộng đồng về an toàn thực phẩm. Theo đó, cần thúc đẩy sự tham gia của các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và người tiêu dùng trong việc tạo ra một môi trường tiêu dùng an toàn. Đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về tác hại của thực phẩm bẩn và các biện pháp bảo vệ sức khỏe...
Việc sửa đổi Luật An toàn thực phẩm, theo bà Nga, phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, đặc biệt là các cam kết trong các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết. Các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm cần được nâng cao, phù hợp với các yêu cầu quốc tế, từ đó tạo ra một môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh và phát triển bền vững.