Phụ nữ vùng cao: Giữ gìn di sản, khai phá tương lai

Giữa đại ngàn xanh thẳm, nơi mây vờn trên những triền núi cao, có những người phụ nữ lặng lẽ mà bền bỉ như những gốc đào, gốc mận ôm trọn cả bốn mùa. Họ vừa là người giữ lửa trong mái nhà nhỏ, vừa là ngọn đèn soi sáng cho văn hóa của cả một cộng đồng. Những đôi tay thoăn thoắt xe sợi, dệt vải, vun vén bữa cơm cho gia đình, cũng chính là những đôi tay góp phần tạo nên những mùa lễ hội rực rỡ, những bản sắc văn hóa được bảo tồn và phát triển qua năm tháng.

Có lẽ, khi nói về người phụ nữ vùng cao, người ta thường hình dung ra một dáng lưng còng dưới gùi ngô nặng trĩu, một bàn tay sần sùi chai sạn vì cày cuốc, hay một bóng dáng tất bật dưới mái nhà tranh... Nhưng đâu đó, ít ai nhận ra rằng, chính họ là những người đang âm thầm giữ gìn kho tàng văn hóa vô giá của dân tộc mình, đồng thời mở ra những con đường mới cho cộng đồng, cho thế hệ mai sau.

Gìn giữ những giá trị nguyên sơ

Mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng và trong nền văn hóa ấy, phụ nữ chính là người bảo tồn và tiếp nối. Họ không chỉ lưu giữ những phong tục, tập quán mà còn truyền dạy cho con cháu cách ăn, cách mặc, cách sống sao cho đúng với cội nguồn. Một bé gái lớn lên trong lòng mẹ, trong những câu chuyện kể về tổ tiên, trong lời ru ngọt lành giữa đại ngàn sẽ tự nhiên thấm đẫm bản sắc dân tộc mà không cần một giáo trình nào ràng buộc.

Người phụ nữ La Chí ở Bắc Hà (Ảnh: Tô Dung)

Người phụ nữ La Chí ở Bắc Hà (Ảnh: Tô Dung)

Từ đôi tay khéo léo của người mẹ, chiếc váy thổ cẩm mang màu sắc rực rỡ của đất trời được dệt nên, từng đường kim, mũi chỉ không đơn thuần là kỹ thuật, mà còn là sợi dây gắn kết giữa quá khứ và hiện tại. Từ lời mẹ dạy, những thế hệ con cháu biết rằng một bữa cơm không chỉ là gạo, là ngô, mà còn là sự sẻ chia, là những câu chuyện bên bếp lửa hồng. Mẹ dạy con gái mình múa điệu khèn, hát câu then, để khi lớn lên, những bài ca ấy không bị mất đi, để bản làng mãi còn vang tiếng hát trong những ngày hội.

Nổi bật trong những ngành nghề truyền thống trên vùng cao có lẽ phải nhắc đến nghề trồng bông, dệt vải của người Lao San. Không giống như nhiều dân tộc khác chỉ dệt vải từ những tấm vải đã có sẵn, người Thu Lao Sán Chá thực hiện toàn bộ quy trình sản xuất, từ trồng bông, xe sợi, dệt vải đến nhuộm chàm và may trang phục. Đây là một quá trình công phu, đòi hỏi sự kiên trì, khéo léo mà chỉ những đôi tay của phụ nữ mới có thể đảm đương một cách hoàn hảo.

Mỗi năm, vào mùa Xuân, những thửa ruộng bông được gieo trồng trên sườn núi. Khi bông chín, phụ nữ Thu Lao thu hoạch, sau đó tách hạt, xe sợi rồi dệt thành những tấm vải thô. Màu vải không rực rỡ, không lấp lánh như những loại vải công nghiệp, nhưng lại chứa đựng hơi thở của thiên nhiên, của đất trời vùng cao. Những hoa văn dệt trên vải là những câu chuyện không lời về cuộc sống, về núi rừng và về tâm hồn người phụ nữ. Sau công đoạn dệt vải là quá trình nhuộm chàm. Đây là bước quan trọng tạo nên màu sắc đặc trưng của trang phục người Thu Lao – những gam màu trầm nhưng có chiều sâu, vừa mộc mạc, vừa huyền bí. Công đoạn nhuộm vải cũng phản ánh triết lý sống của họ: sự kiên nhẫn, bền bỉ và gắn bó với thiên nhiên.

Phụ nữ Thu Lao luôn chú trọng và đề cao việc duy trì nghề dệt vải, may y phục truyền thống.

Phụ nữ Thu Lao luôn chú trọng và đề cao việc duy trì nghề dệt vải, may y phục truyền thống.

Những sợi tơ, sợi bông nhuộm màu từ chất liệu tự nhiên rất khác với màu công nghiệp.

Những sợi tơ, sợi bông nhuộm màu từ chất liệu tự nhiên rất khác với màu công nghiệp.

Những người già trong bản dạy con, cháu đan - nối nghề truyền thống dân tộc mình. Ảnh: Nguyễn San

Những người già trong bản dạy con, cháu đan - nối nghề truyền thống dân tộc mình. Ảnh: Nguyễn San

Trong cộng đồng Thu Lao, phụ nữ không chỉ là người gìn giữ gia đình, mà còn là những "nghệ nhân thầm lặng" của nghề dệt truyền thống. Từ khi còn bé, các cô gái đã được mẹ và bà dạy cách trồng bông, xe sợi, dệt vải. Đó không chỉ là một kỹ năng mà còn là biểu tượng của sự trưởng thành. Một cô gái Thu Lao nếu chưa biết dệt vải sẽ chưa được xem là người phụ nữ đảm đang.

Những tấm vừa để dành cho những sinh hoạt hằng ngày của gia đình. Đồng thời cũng dùng để trao đổi, buôn bán trong những phiên chợ vùng cao. Ở một số nơi, nghề dệt vải còn giúp phụ nữ Thu Lao có thêm thu nhập, từ đó có tiếng nói hơn trong gia đình, trong cộng đồng. Nhưng hơn cả giá trị kinh tế, nghề trồng bông, dệt vải mang một ý nghĩa tinh thần sâu sắc. Nó là sợi dây kết nối giữa các thế hệ, giữa quá khứ và hiện tại, giữa con người và thiên nhiên. Chính những người phụ nữ Thu Lao là người đã duy trì mối liên kết ấy qua bao thăng trầm của lịch sử.

Những người già trong bản dạy các cháu đan - nối nghề truyền thống dân tộc mình. Ảnh: Nguyễn San

Những người già trong bản dạy các cháu đan - nối nghề truyền thống dân tộc mình. Ảnh: Nguyễn San

Chính vì những giá trị đó mà vào ngày 21/2/2024, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ra Quyết định số 379/QĐ-BVHTTDL, công bố Nghề dệt của người Thu Lao, huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai đã được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Không chỉ những người phụ nữ Thu Lao mà các bà, các mẹ, các chị trên vùng cao chẳng mấy khi nói về di sản văn hóa, nhưng chính họ là người lưu giữ trọn vẹn nhất.

Tiên phong mở lối cho tương lai

Với nhiều người phụ nữ vùng cao, cuộc sống không chỉ là sự nhọc nhằn vì mưu sinh, mà còn là chuỗi ngày dài bị kìm kẹp bởi những hủ tục lạc hậu. Họ có thể bị ép gả từ khi còn rất trẻ, thậm chí trước cả khi họ hiểu thế nào là hạnh phúc. Bị buộc phải chấp nhận làm vợ hai, vợ ba khi chồng mình cưới thêm người mới. Họ cũng có thể bị xem như một phần tài sản để trao đổi trong những cuộc hôn nhân sắp đặt...

Lễ quyét làng dân tộc Xa Phó xã Liên Minh.

Lễ quyét làng dân tộc Xa Phó xã Liên Minh.

Phụ nữ còn là những người khởi xướng các lễ hội văn hóa truyền thống.

Phụ nữ còn là những người khởi xướng các lễ hội văn hóa truyền thống.

Những món ăn đặc sản không còn gói gọn trong bản làng mà đã trở thành một phần của những chương trình giao lưu văn hóa, đưa hình ảnh người phụ nữ vùng cao đến gần hơn với mọi miền đất nước.

Những món ăn đặc sản không còn gói gọn trong bản làng mà đã trở thành một phần của những chương trình giao lưu văn hóa, đưa hình ảnh người phụ nữ vùng cao đến gần hơn với mọi miền đất nước.

Ở những bản xa xôi, heo hút, phụ nữ vẫn bị hạn chế việc đi học vì quan niệm “con gái học nhiều cũng chỉ về làm vợ, sinh con”. Những người phụ nữ đó vẫn bị bó buộc trong bếp núc, ruộng nương, quẩn quanh với những nghĩa vụ gia đình, mà không có cơ hội tự quyết định cuộc đời mình.

Nhưng không phải ai cũng cam chịu. Ngày càng có nhiều người phụ nữ vùng cao dám đứng lên phản kháng. Họ hiểu rằng, cuộc đời này không chỉ có một con đường duy nhất, không muốn mình chỉ là cái bóng mờ nhạt trong gia đình hay cộng đồng. Họ muốn sống, muốn tự do và muốn được tự quyết định số phận của mình.

Câu chuyện về chị Châu Thị Say (SN 1982) và em Má Thị Di (SN 2004) ở thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Di là nhân vật chính trong bộ phim tài liệu "Những đứa trẻ trong sương" thành công gần đây của nữ đạo diễn Hà Lệ Diễm là một ví dụ điển hình. Bộ phim đã giành 34 giải thưởng và đề cử tại các liên hoan phim trên thế giới, lọt vào danh sách rút gọn (Top 15) giải Oscar - hạng mục Phim Tài liệu xuất sắc nhất...

Poster của "Những đứa trẻ trong sương" tham dự Oscar.

Poster của "Những đứa trẻ trong sương" tham dự Oscar.

Hai mẹ con Di đại diện cho hai thế hệ phụ nữ Mông ở vùng cao với hai suy nghĩ khác biệt. Trước biến cố lớn là tục "bắt vợ" xảy ra với Di, họ buộc phải đấu tranh nội tâm sâu sắc để đưa ra quyết định quan trọng cho tương lai trước những rào cản vô hình đã hằn sâu trong tâm thức của cộng đồng người H'Mông bao đời qua.

Hành trình của Di cùng câu chuyện của mẹ Say mang đến thông điệp truyền cảm hứng cho nhiều phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số khác, ở những địa phương khác trong việc thay đổi "nếp nghĩ, cách làm", góp phần xóa bỏ các định kiến giới và khuôn mẫu giới, những tập tục lạc hậu có hại cho phụ nữ và trẻ em dân tộc thiểu số.

Không còn bó mình trong gian bếp nhỏ hay nương rẫy xa, ngày nay, phụ nữ vùng cao đã vươn xa hơn, bước ra khỏi những con dốc quanh co để đến với các lớp học, các phiên chợ, các tổ chức cộng đồng. Họ tham gia vào các hợp tác xã dệt thổ cẩm, vào những nhóm sản xuất nông sản sạch, góp phần đưa những sản phẩm đặc trưng của quê hương mình ra thị trường rộng lớn hơn.

Ở nhiều nơi, phụ nữ còn là những người khởi xướng các lễ hội văn hóa truyền thống, không chỉ để gìn giữ phong tục, mà còn để phát triển du lịch, quảng bá bản sắc dân tộc. Những điệu múa, bài hát, những món ăn đặc sản không còn gói gọn trong bản làng mà đã trở thành một phần của những chương trình giao lưu văn hóa, đưa hình ảnh người phụ nữ vùng cao đến gần hơn với mọi miền đất nước.

Các cô giáo cùng học sinh trường mầm non số 2 xã Lùng Thẩn, huyện Si Ma Cai, Lào Cai.

Các cô giáo cùng học sinh trường mầm non số 2 xã Lùng Thẩn, huyện Si Ma Cai, Lào Cai.

Rất nhiều phụ nữ vùng cao đã và đang làm giáo viên, y tá, thậm chí trở thành những nhà hoạt động xã hội tích cực, vận động trẻ em đến trường, bảo vệ phụ nữ khỏi những hủ tục lạc hậu, góp phần xây dựng một cộng đồng văn minh hơn. Những người phụ nữ đó không chỉ giữ gìn những gì cũ, mà còn mạnh mẽ mở lối cho những điều mới mẻ, để bản sắc văn hóa không bị bó hẹp trong sự bảo thủ mà ngày càng rực rỡ hơn trong sự phát triển.

Có người từng hỏi, làm sao để văn hóa truyền thống có thể tồn tại trong một thế giới ngày càng thay đổi? Câu trả lời chính là ở những người phụ nữ vùng cao. Họ là nhịp cầu nối giữa cái cũ và cái mới, giữa những giá trị vững bền và sự đổi thay tất yếu của thời đại.

Phụ nữ vùng cao có thể vẫn mặc chiếc váy thổ cẩm truyền thống, nhưng đã và đang đi trên những con đường dẫn đến tri thức. Họ có thể vẫn thuộc lòng những câu chuyện cổ của tổ tiên, nhưng cũng biết cách kể câu chuyện ấy theo một cách mới, để thế hệ trẻ lắng nghe và trân trọng. Những người phụ nữ đó không để di sản nằm yên trong quá khứ mà mang nó vào hiện tại, làm nó sống động và có giá trị hơn trong cuộc sống hôm nay.

Nhờ họ, những nếp nhà sàn, những phiên chợ vùng cao, những câu hát, điệu múa vẫn còn nguyên vẹn. Nhờ họ, những đứa trẻ vùng cao không chỉ biết về di sản của mình, mà còn tự hào về nó. Và cũng nhờ họ, thế giới hiện đại có cơ hội được biết đến một nền văn hóa lâu đời nhưng vẫn tràn đầy sức sống.

Phụ nữ vùng cao, dù ở bất cứ đâu, dù trong mái nhà nhỏ hay giữa cộng đồng rộng lớn, vẫn luôn là những người lặng lẽ nhưng mạnh mẽ.

Phụ nữ vùng cao, dù ở bất cứ đâu, dù trong mái nhà nhỏ hay giữa cộng đồng rộng lớn, vẫn luôn là những người lặng lẽ nhưng mạnh mẽ.

Phụ nữ vùng cao, dù ở bất cứ đâu, dù trong mái nhà nhỏ hay giữa cộng đồng rộng lớn, vẫn luôn là những người lặng lẽ nhưng mạnh mẽ. Họ gìn giữ những điều xưa cũ, nhưng cũng đồng thời mở đường cho những điều mới mẻ. Họ không chỉ là những người mẹ tần tảo, những người vợ hiền lành, mà còn là những người tạo dựng tương lai cho cả một cộng đồng.

Giữa mênh mông núi rừng, có những dáng người nhỏ bé đang cần mẫn thêu dệt từng mảnh ghép văn hóa cho quê hương mình. Họ chính là sợi dây gắn kết giữa truyền thống và hiện đại, là nhịp cầu để quá khứ không bị lãng quên và tương lai có thể vươn xa.

Minh Anh

Nguồn Công Lý: https://congly.vn/phu-nu-vung-cao-giu-gin-di-san-khai-pha-tuong-lai-470955.html
Zalo