Phụ nữ vẫn ở thế yếu trong phân chia tài sản khi ly hôn
Sau 10 năm thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nguyên tắc bình đẳng giới trong hôn nhân và gia đình đã được ghi nhận rõ ràng trong pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ việc ly hôn, đặc biệt là tranh chấp tài sản, cho thấy phụ nữ vẫn đang đối mặt với không ít bất lợi.
Những rào cản về chứng minh tài sản, định kiến giới trong đánh giá công sức đóng góp, cùng với khoảng trống trong hướng dẫn áp dụng pháp luật đang khiến quyền lợi của phụ nữ chưa được bảo đảm đầy đủ như tinh thần mà luật hướng tới.
Bất bình đẳng trong thực tế

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú chủ trì hội nghị tổng kết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 24-12. Ảnh: PV
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 được đánh giá là bước tiến quan trọng trong bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền của phụ nữ. Luật khẳng định vợ chồng bình đẳng trong quan hệ hôn nhân, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ đối với tài sản, con cái, cũng như khi chấm dứt quan hệ hôn nhân.
Điều 59, Luật Hôn nhân và gia đình quy định nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn phải bảo đảm công bằng, có xem xét đến hoàn cảnh của mỗi bên, công sức đóng góp của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung; trong đó, lao động nội trợ, chăm sóc gia đình được coi là lao động có thu nhập.
Tuy nhiên, theo bà Nguyễn Thị Kim Dung, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Công tác phụ nữ, Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, thực tiễn xét xử cho thấy “khoảng cách đáng kể giữa quy định pháp luật và việc áp dụng pháp luật”. Phụ nữ, nhất là những người dành phần lớn thời gian cho nội trợ, chăm sóc con cái, hỗ trợ chồng phát triển sự nghiệp, thường rơi vào thế yếu khi xảy ra tranh chấp tài sản.

Bà Nguyễn Thị Kim Dung, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Công tác phụ nữ – Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam thông tin về việc chứng minh tài sản chung, tài sản riêng và công sức đóng góp của vợ, chồng vẫn gặp nhiều khó khăn, dễ phát sinh bất lợi cho phụ nữ. Ảnh: PV
Một trong những bất lợi phổ biến mà phụ nữ gặp phải khi ly hôn là khó chứng minh công sức đóng góp vào khối tài sản chung. Trong thực tế, phần lớn tài sản như nhà đất, xe cộ, cổ phần doanh nghiệp… thường đứng tên chồng hoặc người thân bên chồng. Khi xảy ra tranh chấp, người vợ phải chứng minh đó là tài sản chung hoặc chứng minh mình có đóng góp đáng kể để được chia phần tương xứng.
Trong khi đó, lao động nội trợ - một dạng lao động không được trả lương, không có hóa đơn, chứng từ, dù được pháp luật thừa nhận, nhưng lại rất khó định lượng trên thực tế. Nhiều phụ nữ không có thu nhập ổn định, không trực tiếp tạo ra nguồn tiền, dẫn đến việc công sức của họ bị xem nhẹ hoặc đánh giá thấp hơn so với đóng góp kinh tế trực tiếp của người chồng.
Thực tiễn xét xử cho thấy, không ít vụ việc người vợ sau nhiều năm hy sinh sự nghiệp, ở nhà chăm sóc con cái, quán xuyến gia đình, khi ly hôn chỉ được chia phần tài sản ngang bằng hoặc thậm chí thấp hơn, với lý do “không chứng minh được công sức vượt trội”.
Áp dụng pháp luật chưa thống nhất
Thông tư liên tịch số 01/2016 của Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao và Bộ Tư pháp đã có hướng dẫn quan trọng khi khẳng định người ở nhà chăm sóc con, gia đình được coi là lao động có thu nhập tương đương với người đi làm. Tuy nhiên, trên thực tế, việc áp dụng quy định này vẫn chưa thống nhất giữa các địa phương, thậm chí giữa các thẩm phán.
Bà Nguyễn Thị Kim Dung chỉ ra rằng, pháp luật hiện hành chưa có tiêu chí cụ thể, định lượng rõ ràng để xác định “công sức đóng góp nhiều hơn” của vợ hoặc chồng. Khoảng trống này khiến việc chia tài sản trong nhiều vụ án phụ thuộc khá lớn vào nhận thức, kinh nghiệm và “nhạy cảm giới” của người tiến hành tố tụng.
Nếu người xét xử chưa thực sự thấm nhuần nguyên tắc bình đẳng giới, chưa đánh giá đầy đủ giá trị của lao động chăm sóc, nội trợ, thì phán quyết đưa ra khó có thể bảo đảm công bằng thực chất cho phụ nữ.
Trong phần lớn các vụ ly hôn, người trực tiếp nuôi con là phụ nữ. Điều này đồng nghĩa với việc sau ly hôn, họ không chỉ phải lo ổn định chỗ ở, thu nhập, mà còn gánh thêm trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng con cái lâu dài.
Tuy nhiên, trên thực tế, nghĩa vụ cấp dưỡng của người không trực tiếp nuôi con - thường là người chồng - lại là khâu thực thi kém hiệu quả nhất. Nhiều trường hợp, bản án đã có hiệu lực nhưng nghĩa vụ cấp dưỡng không được thực hiện đầy đủ, chậm trễ hoặc bị trốn tránh. Gánh nặng kinh tế vì thế dồn lên vai người phụ nữ, khiến họ rơi vào tình trạng khó khăn kéo dài sau ly hôn.
Khi kết hợp với việc bị chia phần tài sản không tương xứng, phụ nữ dễ rơi vào vòng luẩn quẩn nghèo hóa sau ly hôn, đặc biệt là phụ nữ ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa hoặc phụ nữ lớn tuổi, ít cơ hội quay lại thị trường lao động.
Định kiến giới vẫn là “rào cản vô hình”
Bên cạnh những bất cập pháp lý, định kiến giới vẫn là một yếu tố tác động không nhỏ đến kết quả phân chia tài sản khi ly hôn. Trong một số trường hợp, quan niệm truyền thống coi đàn ông là “trụ cột kinh tế”, phụ nữ “ăn theo chồng” vẫn ít nhiều ảnh hưởng đến cách đánh giá công sức đóng góp của các bên.
Thực tế cho thấy, có những người vợ vừa đi làm, vừa gánh phần lớn việc nhà, chăm sóc con cái, nhưng khi ly hôn, phần đóng góp nội trợ của họ không được nhìn nhận đầy đủ. Ngược lại, đóng góp kinh tế của người chồng thường được coi là yếu tố quyết định, dù thành công đó có sự hỗ trợ âm thầm, lâu dài từ người vợ.
Trước những bất cập nêu trên, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ trong các vụ việc hôn nhân và gia đình.
Theo số liệu từ Trung ương Hội, trong những năm gần đây, các cấp Hội đã tham gia tư vấn, hỗ trợ giải quyết hàng nghìn vụ việc liên quan đến bạo lực gia đình, tranh chấp hôn nhân, quyền nuôi con và tài sản. Nhiều vụ việc, thông qua kiến nghị của Hội, đã được Tòa án xem xét lại theo hướng bảo đảm tốt hơn quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.
Không chỉ dừng lại ở hỗ trợ từng vụ việc cụ thể, Hội còn tích cực tham gia phản biện chính sách, kiến nghị hoàn thiện pháp luật, đặc biệt là các quy định liên quan đến chia tài sản, nghĩa vụ cấp dưỡng và bảo vệ phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình.
Song ở góc độ thể chế, tại hội nghị tổng kết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 24- 12, nhiều ý kiến cho rằng đã đến lúc cần rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật theo hướng bảo vệ tốt hơn quyền lợi của phụ nữ khi ly hôn.
Là phụ nữ ở cảnh ly hôn, bà Hoàng Thị Hoài, ở phường Yên Hòa (Hà Nội) cho rằng, trước hết, cần có hướng dẫn cụ thể, chi tiết hơn về việc xác định công sức đóng góp của vợ chồng, đặc biệt là lượng hóa giá trị của lao động nội trợ, chăm sóc gia đình. Việc này không chỉ giúp thống nhất áp dụng pháp luật, mà còn hạn chế sự phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của người xét xử.
Bên cạnh đó, cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về giới, quyền con người cho đội ngũ cán bộ tư pháp, thẩm phán, hòa giải viên, nhằm nâng cao “nhạy cảm giới” trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng, cần có cơ chế cưỡng chế thi hành hiệu quả hơn, đồng thời có biện pháp hỗ trợ kịp thời cho người trực tiếp nuôi con khi bên có nghĩa vụ cố tình trốn tránh.
Bình đẳng giới trong hôn nhân và gia đình không chỉ là vấn đề pháp lý, mà còn là thước đo của sự tiến bộ xã hội. Khi phụ nữ vẫn chịu thiệt thòi trong phân chia tài sản sau ly hôn, điều đó cho thấy bình đẳng mới chỉ dừng lại ở hình thức, chưa đạt tới công bằng thực chất.
Việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi và thay đổi nhận thức xã hội về giá trị của lao động chăm sóc, nội trợ là yêu cầu cấp thiết. Chỉ khi công sức và sự hy sinh của phụ nữ trong gia đình được ghi nhận đầy đủ, quyền lợi của họ khi ly hôn mới thực sự được bảo đảm, đúng với tinh thần nhân văn và tiến bộ mà Luật Hôn nhân và gia đình hướng tới.






























