Phong cách báo chí Hồ Chí Minh trên Báo Cứu Quốc - Một di sản vô giá

Từ trước và sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Báo Cứu Quốc đã đồng hành cùng các tờ báo quan trọng như Cờ Giải phóng, Sự thật, và sau này là báo Nhân Dân (từ 1951) cùng báo Quân đội nhân dân (từ 1950), góp phần tạo nên sự phong phú và thống nhất của hệ thống truyền thông cách mạng lúc bấy giờ.

Báo Cứu Quốc dưới sự chỉ đạo và đóng góp trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã vượt ra khỏi vai trò của một cơ quan ngôn luận thông thường. Tờ báo trở thành một công cụ chiến lược đa năng, được Người sử dụng một cách tinh tế để định hình dư luận, giáo dục quần chúng và củng cố nền móng chính quyền cách mạng non trẻ.

Tầm nhìn chiến lược của lãnh tụ

Báo Cứu Quốc ngay từ khi ra đời đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm, theo dõi. Người không chỉ đọc, đánh dấu, mà còn trực tiếp viết bài và thậm chí đề xuất các chuyên mục như "Bảng vàng" để "nâng cao chí kháng chiến của dân". Những hành động này cho thấy sự chỉ đạo của Người là sát sao, chi tiết và có tính xây dựng cao, nhằm đảm bảo nội dung tờ báo luôn đi đúng định hướng và đạt hiệu quả tối đa. Người đã biến tờ báo thành một kênh chính yếu để khởi xướng các phong trào quốc gia lớn như "Đời sống mới" và giải quyết những vấn đề xã hội cấp bách như “giặc đói” và “giặc dốt”. Điều này khẳng định Cứu Quốc là một công cụ quản trị và cách mạng thiết yếu, phản ánh một chiến lược truyền thông đúng đắn, có chủ đích và có tầm nhìn xa của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Bác Hồ đọc báo Cứu Quốc. Ảnh: TL

Bác Hồ đọc báo Cứu Quốc. Ảnh: TL

Theo ước tính trong giai đoạn từ năm 1945 đến 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có khoảng 400 bài báo được viết và đăng tải trên báo Cứu Quốc. Các bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tờ báo có thể được phân loại thành ba nhóm chính, mỗi nhóm thể hiện một mục đích truyền thông và giáo dục riêng biệt, góp phần vào chiến lược tổng thể của Người trong công cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước.

Nhóm các văn kiện, tài liệu chính thức được đăng lại (Lời kêu gọi, diễn văn, thư từ). Đây là loại bài viết chủ yếu truyền tải trực tiếp các chỉ đạo, quan điểm, chính sách của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đến toàn dân và cộng đồng quốc tế. Tờ báo trở thành một diễn đàn công khai cho các thông điệp chính thức, kênh Cứu Quốc được cho là vượt trội hơn hẳn so với kênh hành chính truyền thống và đảm bảo rằng thông điệp của Chủ tịch nước được tiếp cận và hiểu bởi đông đảo quần chúng. Sự xuất hiện trung bình hơn 10 bài mỗi quý từ năm 1948 đến 1954, cho thấy tầm quan trọng của việc công khai hóa các thông điệp chính thức, đảm bảo tính minh bạch và sự tiếp cận rộng rãi.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập và định hình nền báo chí cách mạng Việt Nam. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người đã trực tiếp tham gia mọi khâu của quá trình làm báo, từ vai trò phóng viên, biên tập viên, chủ bút, quản trị đến phát hành. Sự nghiệp báo chí của Người, với hàng nghìn bài báo đã công bố, đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận và là nền tảng vững chắc cho sự phát triển của báo chí cách mạng Việt Nam hiện nay.

Nhóm các bài báo về đạo đức cách mạng và lề lối làm việc. Loại bài này, tập trung vào việc giáo dục đạo đức, rèn luyện phẩm chất cho cán bộ và nhân dân, chấn chỉnh lề lối làm việc trong các cơ quan, đoàn thể cách mạng. Soi chiếu với những lý thuyết báo chí cho thấy, Người đã sử dụng truyền thông một cách chủ động để quản trị và cải cách nội bộ, biến phê bình công khai trên báo chí thành một công cụ cải thiện hành chính. Điển hình, với chủ đề "Chống bệnh quan liêu giấy tờ", Người đã viết 3 bài liên tiếp đăng trên báo Cứu Quốc các số ra ngày 29/6, 2/7, 5/7 năm 1954. Trong đó, Người đã chỉ ra các hiện tượng tiêu cực như: không sát thực tế, đề ra yêu cầu khó khăn, phức tạp, giấy tờ nhiều nhưng thiếu cụ thể, trùng nhau, làm chậm trễ, bỏ đọng, buông trôi công văn... Người nhấn mạnh rằng bệnh quan liêu giấy tờ đã gây nhiều khó khăn, cản trở công tác kháng chiến và ảnh hưởng đến đời sống của cán bộ, nhân dân. Do đó, việc kiên quyết loại bỏ bệnh này là yêu cầu cấp bách để đẩy mạnh mọi mặt công tác, sản xuất nông thôn và củng cố chính quyền.

Các nhóm bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên báo Cứu Quốc cho thấy Người đã sử dụng báo chí như một trường học lớn về chính trị và quân sự. Người vừa sử dụng báo chí để tuyên truyền, khích lệ, vừa để trang bị kiến thức và kỹ năng thực tiễn cho quần chúng, biến mỗi người dân thành một chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng và thực tiễn. Điều này phản ánh tầm nhìn chiến lược của Người trong việc nâng cao ý chí, kiến thức cho toàn dân trước cuộc kháng chiến, kiến quốc lâu dài.

Tiểu phẩm tuyên truyền, giáo dục chính trị và đấu tranh. Loại bài này đăng dưới dạng các tiểu phẩm trong mục "Chuyện gần xa" và "Thường thức chính trị". Mục "Chuyện gần xa" tập trung đả kích, vạch mặt kẻ thù của đất nước là thực dân Pháp xâm lược, bè lũ can thiệp và bù nhìn tay sai. Bên cạnh việc vạch trần kẻ thù, mục này còn ca ngợi, nêu gương dũng cảm, tận tụy của bộ đội, nhân dân và thiếu nhi Việt Nam, tinh thần chiến đấu của các dân tộc bị áp bức khác. Người cũng tập trung vào các chủ đề chống giặc đói, giặc dốt, kêu gọi "nhường cơm sẻ áo" bằng hành động cụ thể: "Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó... để cứu dân nghèo".

Phong cách báo chí Hồ Chí Minh - đỉnh cao của tài năng

Các bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên báo Cứu Quốc đã cho chúng ta thấy Người đã hiểu được sức mạnh của báo chí không chỉ để thông tin mà còn có thể lôi cuốn đồng bào thành những người tham gia tích cực, có kiến thức vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Với một tư duy, nhận thức vĩ đại như vậy nên phong cách báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết tinh của tài năng ngôn ngữ, nghệ thuật lập luận sắc bén và khả năng thấu hiểu sâu sắc tâm lý quần chúng, biến mỗi bài viết thành một công cụ hiệu triệu và giáo dục mạnh mẽ. Phong cách báo chí của Người trên báo Cứu Quốc thể hiện ở những điểm chính sau:

Ngôn ngữ và giọng văn cụ thể, dễ hiểu, gần gũi và giản dị trong từng câu chữ. Khi chỉ ra những lầm lỗi của cán bộ, Người viết một cách "cụ thể, dễ hiểu như người thầy thuốc bắt mạch con bệnh “quan cách mạng” vậy". Lời kêu gọi "nhường cơm sẻ áo" cũng được trình bày một cách thực tế, dễ thực hiện, đi kèm với hành động gương mẫu của chính Người.

Sự linh hoạt trong giọng văn của là một đặc điểm nổi bật, đó là sự thấu hiểu sâu sắc về tâm lý quần chúng và nghệ thuật thuyết phục. Sự linh hoạt này là yếu tố then chốt tạo nên sức hiệu triệu mạnh mẽ của Người. Khi viết cho thanh niên Nam Bộ, Người dùng lời lẽ vừa thân mật, vừa sôi nổi, trẻ trung, mạnh mẽ: "Tôi thề cùng các bạn giữ vững nền độc lập, tự do của nước Việt Nam". Ngược lại, khi viết cho các vị phụ lão, Người lại sử dụng lời lẽ gần gũi mà trân trọng, sâu xa mà giản dị, nghiêm cẩn: "Chúng ta già cả, không làm được công việc nặng nề, thì khua gậy đi trước, để khuyến khích bọn thanh niên và san sẻ những kinh nghiệm của chúng ta cho họ".

Đặc biệt, Người có khả năng biểu đạt bằng "ngôn ngữ từ trái tim" để thuyết phục toàn dân đoàn kết. Trong thư gửi các vị linh mục và đồng bào công giáo cả nước dịp Lễ Noel đầu tiên sau ngày nước nhà độc lập, Người mở đầu bằng lời lẽ tôn kính đức chúa Giêsu, bằng sự hiểu biết sâu sắc về Ngài, Người nhấn mạnh "tinh thần thân ái của Ngài chẳng những không phai nhạt mà tủa ra đã khắp, thấm vào đã sâu".

Phương châm đại đoàn kết luôn được Người đặc biệt quan tâm trong từng bài viết, bài nói chuyện, ở mọi nơi, mọi lúc, đăng trên báo Cứu Quốc. Điều này có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc củng cố chính quyền cách mạng non trẻ và thúc đẩy cuộc kháng chiến vì độc lập, tự do dân tộc, vì hạnh phúc, ấm no của nhân dân.

Nghệ thuật lập luận và thuyết phục của Hồ Chí Minh nổi bật bởi sự sáng tỏ, khúc triết, lôgíc, chặt chẽ và sắc bén. Khi viết cho người Pháp ở Đông Dương, lập luận của Người được đánh giá là "chặt chẽ, sắc bén, không thể chối cãi!". Người luôn khẳng định chính nghĩa của dân tộc và phân biệt bạn - thù trên tinh thần "thêm bạn, bớt thù". Người khẳng định: "Chúng tôi không sợ chết là vì chúng tôi muốn sống. Chúng tôi cũng như các bạn, muốn sống tự do, không có ai đè đầu bóp cổ. Bởi vậy chúng tôi đã phân biệt người Pháp tốt với người Pháp xấu".

Người thường sử dụng các ví dụ cụ thể, hình ảnh so sánh và ẩn dụ để làm rõ vấn đề. Khi nói về "Cần, Kiệm", Người dùng hình ảnh "Nước chảy mãi đá cũng mòn, kiến tha lâu cũng đầy tổ" và so sánh "Cần mà không kiệm, thì “làm chừng nào xào chừng ấy”. Cũng như một cái thùng không có đáy". Những cách tiếp cận thuyết phục đa diện này của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất hiệu quả trong việc xây dựng sự đồng thuận rộng rãi.

Các bài viết của Hồ Chí Minh trên báo Cứu Quốc có tính định hướng, kêu gọi và sức hiệu triệu rất cao. Người vận động quần chúng không chỉ bằng lý lẽ mà còn bằng tình cảm và sự gương mẫu. Phong trào "nhường cơm sẻ áo" là một ví dụ điển hình: Người không chỉ kêu gọi mà còn gương mẫu đi đầu thực hành, sau đó viết thư trực tiếp cảm ơn những người đóng góp nhiều nhất. Điều này tạo ra sự lan tỏa và tính thuyết phục cao trong nhân dân. Người cũng thể hiện tầm nhìn chiến lược trong việc giải quyết các vấn đề cấp bách của đất nước như "giặc đói" và "giặc dốt." Người khẳng định "Nạn đói kém nguy hiểm hơn chiến tranh" và coi "nâng cao dân trí" là một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc, đồng thời Người có những chỉ dẫn cụ thể, dễ hiểu, dễ làm để ai ai cũng có thể thực hiện.

Phong cách báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên báo Cứu Quốc là một di sản vô giá, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận sắc bén, tính giáo dục sâu sắc và tính quần chúng rộng rãi. Phong cách này đã đặt nền móng và định hình cho báo chí cách mạng Việt Nam, nhấn mạnh vai trò của báo chí trong việc phục vụ nhân dân, gắn liền với thực tiễn cách mạng, và luôn hướng tới mục tiêu độc lập, tự do và hạnh phúc của dân tộc. Trải qua 100 năm báo chí cách mạng Việt Nam, phong cách báo chí của Người vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, tiếp tục là kim chỉ nam cho nền báo chí đất nước trong kỷ nguyên vươn mình.

Với lịch sử vẻ vang, truyền thống tốt đẹp và phong cách cởi mở, Báo Cứu Quốc đã trở thành niềm tự hào của báo chí cách mạng Việt Nam. Tổng Bí thư Trường Chinh đã đánh giá báo Cứu Quốc là "niềm tự hào của Báo Đại Đoàn Kết ngày nay và cũng là niềm tự hào chung của báo chí cách mạng nước ta". Việc tờ báo được xuất bản đều đặn trong gần 3.000 ngày dưới những điều kiện chiến tranh vô cùng khắc nghiệt, thiếu thốn đã được coi là một "kỳ tích của nhân dân ta".

TS. Nguyễn Đăng Khang

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/phong-cach-bao-chi-ho-chi-minh-tren-bao-cuu-quoc-mot-di-san-vo-gia-10308493.html
Zalo